Monday, May 26, 2008

Thượng du, niềm thương nhớ


Ngược d�ng Th�c B� l�n tận thượng nguồn dựng trại. Trại nằm trong thung lũng, s�t ch�n n�i. N�i kh�ng c� t�n. N�i chập ch�ng tr�ng điệp, đếm kh�ng hết. Cả một v�ng bao la n�i non hiểm trở trải d�i l�n tận bi�n giới, mang chung một t�n Ho�ng Li�n Sơn.
Một thời kỳ n� lệ xa x�i, người da đen Phi Ch�u bị l�a xuống t�u đi biệt xứ. T�i cũng bị l�a xuống t�u, nhưng chưa ra khỏi lằn ranh xứ sở. Thời gian kh�ng l�u m� tưởng chừng qua một kiếp. Bỏ đời cũ. Qu�n những buộc r�ng qu� khứ. Trong nghiệt ng� suy tư nhiều sẽ kh�ng sống nổi. Dằn vặt với thương đau, sẽ kh�ng c�n mạng trở về. Tinh thần đi xuống, th�n x�c kh�ng thể đi l�n. H�y xem mọi sự h�nh x�c l� b�nh thường. T�i nghĩ thế, v� thản nhi�n �ch�m tre đẵn gỗ tr�n ng�n�, dựng trại.
L�n trại lợp bằng nứa, chung quanh c� r�o. H�ng r�o cũng l�m bằng nứa bắt ch�o v�o nhau, đầu ch�ng nhọn hoắt. Trưởng trại n�i r�o để cản th� dữ, nhưng ai cũng biết r�o để ngăn người từ trong tho�t ra ngo�i. Cổng trại l� lối ra v�o độc nhất, c� ch�i canh kiểm so�t. B�n h�ng trại, c�n một ch�i canh nữa, cao bằng ngọn c�y để quan s�t to�n trại. Tr�n đ� đặt một họng s�ng đại li�n chỉa mũi v�o trại. Nơi miền cao th�n bản, s�ng đạn l� thứ duy nhất tượng trưng văn minh của người miền xu�i.
Ở đ�y, kh�ng đo thời gian bằng kim đồng hồ. Trưa nghe chim bắt-c�-tr�i-cột k�u tr�n đầu n�i, biết đang m�a hạ. Đ�m nằm nghe c� r�c ngo�i đầu hồi, biết đang m�a đ�ng. Thung lũng �t chịu mặt trời. �m kh� n�i rừng pha trong sương đục, nh�a nh�a l�n trại. C�i lạnh rờn rợn nhiễm v�o người, l�u dần th�nh quen. Thi�n nhi�n tập cho con người biết chịu đựng. Về với thi�n nhi�n, thở c�ng cỏ c�y. Đi tr�n đất ẩm, nghe m�i rong r�u l� mục. L�m quen với muỗi đ�i vắt rừng. Coi thường độc tr�ng rắn r�t. Ngồi lặng h�ng giờ, ngắm những b�ng hoa dại �m thầm ngoi l�n từ kẽ đ�. Thưởng thức tinh hoa của đất trời, cũng l� một c�ch dưỡng sinh. Dựa lưng gốc đại thụ, thấu lẽ c�m n�n ng�n đời. Qu�n chuyện ng�y trước. Bỏ chuyện ng�y sau. Sống đời hoang d�. Th� rừng v� t�m kh�ng biết buồn. Ai nặng thất t�nh lục dục dễ bỏ m�nh giữa chốn th�m sơn.
Gi� lớn bốn phương về ngang thung lũng, bỗng trở m�nh cuộn th�nh cơn lốc. L� kh� bị hốt l�n cao, rồi tung ra như bướm tan đ�n bay tứ t�n. C�i n�ng m�a kh� gi� L�o kh�ng đủ ấm l�ng thung lũng. Gi� rừng kh�ng s�t đất. Gi� r� r�o tr�n đọt c�y. Dường xa x�i vọng lại. Dường gần gũi b�n m�nh. Đời đang khốn kh� m� nghe như c� tiếng th� thầm của một qu� nh� c�ch trở.
Ở đ�y, thường nghe gi� h�. C�c cụ gi� người Dao ngồi hơ tay b�n bếp lửa chiều đ�ng, kể bao nhi�u l� chuyện �m hồn nương theo gi� về đậu tr�n ngọn rừng tru thảm khốc. Thầy Mo thương những hồn c� quạnh, kh�ng nỡ đuổi đi. T�i, người mạt kh�ch phương xa. Nghe chuyện thần linh ma quỷ. Nghe truyền thuyết bao đời cha �ng của người T�y người Dao. Nghe b�i ca gắn b� n�i rừng. Thấm th�a muốn trở th�nh người của thượng du để đ�m đ�m nằm dưới m�i nh� s�n, thấy c�y cỏ mọc đầy trong giấc chi�m bao. T�i, kẻ tr� c�n, kh�ng thuộc hết b�i trường ca th�n bản, viết lại bằng mường tượng nhớ nhớ qu�n qu�n:
Bản ta c� bếp lửa bằng tuổi ng�i nh�
C� người gi� bằng c�y cổ thụ
Sống trăm năm b�ng đ� ngọn n�i
Sinh con đẻ c�i
Ở c�ng c�y rừng
Ở c�ng đ� n�i
Đất cho c�i ăn lấy từ nương rẫy
Nước cho c�i uống lấy từ khe xanh
Thịt da thấm sương m�B�n tay rắn rỏi
Vỡ đất cho hạt l�n mầm
Buổi s�ng giắt con dao quắm
V�c c�i x� gạc tr�n vai
Đội l� rẻ gai v�o rừng
Bắt con mang con mển
Bắt con nh�m con trăn
Chặt c�y giang c�y nứa c�y vầu
Đốn c�y trắc c�y lim c�y gụ
Đẽo gỗ l�m nh� s�n
Nu�i bếp lửa trừ t� x�m nhập
Bản ta c� thầy Mo
Quen với Thần Rừng Thần N�i
Biết vẽ b�a l�m ph�p
Gọi �m binh che chở bản l�ng
Kh�ng sợ con c� m�o tr� rủa
Kh�ng sợ con beo con b�o
Về r�nh trong đ�m tối
Thầy Mo gọi �ng Trời
Cho c�i mưa c�i nắng
Nu�i c�y lớn l�n nu�i người lớn l�n
Giống d�ng đời đời nối tiếp ...
T�i kh�ng hiểu ng�n ngữ người sắc tộc. Nhưng khi cụ gi� người Dao cất giọng, nghe như tiếng k�u trầm thống v� một nỗi g� như nỗi t�n phai đang đổ xuống n�i rừng lồng lộng ho�ng h�n. Kh�ng như ng�m thơ. Kh�ng như h�t t�n cổ nhạc. Kh�ng như tụng kinh. C�i �m l�n kh�ng bổng, xuống kh�ng trầm. � a l� lết k�o d�i �o nảo. Từa tựa như ph�p sư đọc thần ch�. Một sắc th�i ho�n to�n ri�ng biệt. Lẩn khuất trong lời ca, c� niềm bi tr�ng. Cụ gi� chuyển ngữ bằng lời Việt. T�i rắp t�m ghi nhớ trong l�ng, m� l�ng t�i th� nh�a dần theo ng�y th�ng nắng mưa.
Những chiều thu y�n ả, ngồi tr�n lưng chừng n�i nh�n xuống rừng. Kh�i nghi ng�t bốc l�n từ những m�i nh� s�n, n�p sau v�m c�y. Nhớ c�i bếp người thượng du. Đ�m lửa đầu ti�n thỉnh từ thầy Mo đem về gầy n�n bếp lửa. V� đ�m lửa ấy, �m ỉ ng�n ho�i theo thời gian, tồn tại c�ng với ng�i nh�. Người Dao tin rằng lửa xua đi b�ng tối ma quỷ. Muốn cho nh� cửa b�nh y�n, phải giữ lửa ho�i trong bếp. T�i cũng muốn tin như thế, tin bất cứ điều g� huyền b� để trong tuyệt vọng, tinh thần c�n c� thi�ng li�ng l�m chỗ dựa.
Những người kh�ch bất đắc dĩ từ phương Nam xa x�i đến đ�y, đều gh� m�a đ�ng Việt Bắc. M�a đ�ng. Ng�y chưa chiều, trời đ� chạng vạng từ l�c mới ra đi.
M�a đ�ng đến mưa ph�n gi� bấc
Suốt m�a đ�ng kh�ng thấy mặt trời
Ng�y x�m �m u. Mưa ph�n nhẹ như sương muối, thấm ẩm �o quần. Gi� bấc hiu hiu, thổi c�i buốt luồn v�o tận xương. V�c b� nứa d�i l� th� xuống n�i. Đất nh�o. Dốc trơn. Trượt t�. Vấp ng�. Tay ch�n x�y xước, chảy m�u m� kh�ng đau. Da thịt lạnh t� mất cảm gi�c.
Đường đi kh�Kh�ng kh� v� ngăn s�ng c�ch n�i
M� kh� v� l�ng người ngại n�i e s�ng
C� thật vậy kh�ng? C�u n�i của Nguyễn B� Học một thời lấy l�m kim chỉ nam, d� h�m chỉ nghĩa b�ng, giờ đ�y, bỗng thấy s�o rỗng. Những ai đang tr�n dốc đời khổ sở mới biết được c�y thập tự gi� tr�n vai Ch�a Gi�-Su nặng dường n�o. C� v�o địa ngục mới cảm th�ng kẻ chịu cảnh A Tỳ. Ngồi một chỗ l� thuyết su�ng, n�i những c�u triết l� để đời dễ hơn l� đối mặt với thực tại gian tru�n. Những h�nh nh�n tiều tụy r�ch rưới, vượt qua được một m�a đ�ng l� đi th�m một chặng đường v� vọng. Sự v� vọng giết người. C�ng lấn s�u v�o con đường v� vọng, c�ng gần sự chết. Chết đủ mọi c�ch. Đ�i l�m suy dinh dưỡng, th�n x�c kh�ng c�n sức đề kh�ng với bệnh tật. Thậm ch� cảm xo�ng cũng chết. Chung quy, cũng v� kh�ng thấy được �nh s�ng ph�a cuối con đường v� vọng. T�i c� người bạn c�ng cảnh ngộ, khi đi ti�u thấy ph�n c� lẩn ch�t đ�m, ứa nước mắt. Tao tới số rồi. Nếu m�y c�n c� ng�y về, cho vợ con tao biết ng�y c�ng giỗ. Anh bị kiết lỵ. Bị kiết lỵ coi như Ngọc Ho�ng giũ sổ. Tất cả thuốc men đ� bị tịch thu từ l�c mới đặt ch�n ra đất Bắc. Ở đ�y, rau sam đ�m dập, vắt lấy nước uống được coi l� thuốc trị bệnh kiết lỵ. Ban đầu, anh c�n đi ra nh� cầu. Ng�y thứ hai, t�i đ�o c�i hố nhỏ ngo�i v�ch l�n cho anh ngồi đ�. T�i phải đi rừng. Kh�ng ai săn s�c, anh b� ra hố giữa c�i lạnh m�a đ�ng dao cắt. Sau, anh nằm lu�n trong l�n sạp. Ỉa ra m�u. Kh�ng cần mặc quần nữa. Một kẻ c� quyền từ tr�n khung xuống, đứng nh�n anh. Mặt lạnh. Kh�ng biểu hiện căm th� hay thương x�t. Kh�ng ai c� thể đo�n được trong c�i đầu ấy đang nghĩ g�. Hỏi c� cần g� kh�ng? Bạn t�i thều th�o, xin một cục đường v� g�i m� ăn liền. C�u trả lời dứt kho�t. Đường, c� ngay. M� xứ n�y kh�ng đ�o đ�u ra được. Y�u cầu đ� thỏa m�n một nửa như �n huệ cuối c�ng. T�i đưa bạn về đất, an nghỉ dưới ch�n đồi. Nước mắt t�i chảy ngược, kh�ng c� giọt n�o nhỏ xuống cho anh.
Thời mạt vận quỷ thần quay mặt
Nghiến chặc răng k�nh với tai ương
Người bỏ cuộc đi về với đất
Chiếu b� th�y nằm lại rẫy nương
Bốn m�a đều c� người đi kh�ng trở lại. Nhưng m�a đ�ng khắc nghiệt l� thời điểm dễ nhất để vĩnh biệt thế gian. Tử Thần l�ng v�ng đ�u đ�y, l�m sao l�nh mặt? T�i nhớ lo�ng tho�ng trong Thiền Luận: �Tất cả đều l� phương tiện tu h�nh�. Trước nghịch cảnh, t�i �p dụng ngay c�u n�y để h�a giải mọi thương đau, biến nhọc nhằn th�nh phương tiện. B�ng Uẩn xem bửa củi g�nh nước l� thần th�ng diệu dụng. Sao t�i kh�ng xem đốn c�y cuốc đất l� một c�ch tập dưỡng sinh? V� t�i đ� đi qua m�a đ�ng, đi qua nhiều m�a đ�ng r�t mướt bằng sự thư th�i ri�ng t�i. Một kẻ c� quyền sau nhiều ng�y nhận x�t, đ� ph� b�nh c�ch l�m việc của t�i: �Giơ cuốc l�n, c� ỉa. Hạ cuốc xuống, mối x�ng�. C�u n�i l�m t�i sửng sốt. Diễn tả động t�c chậm, kh�ng c� c�i chậm n�o bằng. Từ từ giơ cuốc l�n, chậm như ngừng lại. Thời gian l�u đủ để con c� đậu tr�n c�i cuốc v� ỉa. Hạ xuống cũng chậm, đến nỗi trước khi nhấc cuốc l�n th� mối đ� x�ng th�nh tổ. Một lối diễn tả độc đ�o. Rất b�nh d�n m� cũng rất tuyệt vời. T�i m�i lấy l�m l� th� v� c�u n�i ngộ nghĩnh, qu�n c�i hậu quả tai hại sau khi bị ph� b�nh. Cứ thế, th�n bị kềm chế m� � th� phất phơ như chuyện đ�a. Tưởng như hồn v� x�c chẳng d�nh dấp g� nhau.
Nhiều đ�m. T�i nghe tiếng chắc lưỡi của những người chung quanh. Những con Thạch S�ng kh�ng ngủ, nằm trằn trọc nuối tiếc ho�i một thời quyền uy son v�ng đ� mất. C�nh cửa qu� khứ đ� kh�p lại. Nhưng c�i dư �m vi vu c�n đủ sức n�m bao người qua cửa tử. Nuối tiếc v� thống hận l� chất cường toan b�o m�n t�m phế. Người xưa uất kh� m� tr�o m�u họng. Đời nay, kh�ng thấy c� ai. L�c đ�c c� dăm anh h�ng sĩ kh� th� đ� cầm s�ng tự bắn v�o đầu, chết hết rồi. Kể chi những kẻ bợ đ�t m� n�n danh phận. Ngồi tr�n đầu thi�n hạ m� chăn d�n. Nằm tr�n bụng đ�n b� m� xua qu�n v�o trận mạc. Gặp thế biến, ph�ng nước đại th�o th�n nhanh hơn ngựa chạy trường đua. Bao giờ thấy những phường cẩu trệ bất nh�n chiếm giữ những ng�i vị trọng yếu quốc gia l� điềm b�o trước một chế độ suy t�n. Đ� l� quy luật của mỗi lần lịch sử sắp sang trang. V� c�i hậu quả tất yếu của n� một số người sẽ bị x� xuống hầm tai họa. Tr�ch ai th� chuyện cũng đ� rồi. Chắc lưỡi l� bu�ng th�m một dấu chấm than (!), tượng h�nh cho giọt nước mắt rớt xuống đời m�nh. Đời m�nh vốn đ� ướt đẫm từ khi lầm lỡ đem th�n giao cho kẻ �c. Th�i th� lo �bảo tinh, dưỡng kh� tồn thần�, giữ c�i bổn mạng được ng�y n�o hay ng�y ấy. Sầu bi l� tự nghiến đứt sợi d�y đang treo m�nh tr�n vực thẳm.
Nếu kh�ng mặc cảm lưu đ�y th� sống với n�i rừng l� một kỳ th�. Người T�y người Dao sinh ra, lớn l�n ở đ�y. Một nơi m� �nh s�ng văn minh chưa hề chiếu rọi. Trong nh� họ, ngo�i những c�i cuốc con dao c�i r�u l�m bằng kim kh� tất cả những vật dụng c�n lại đều bằng gỗ hoặc đất nung: ống bương đựng nước, nồi đất nấu cơm�
Những ng�i nh� s�n thường được dựng gần nguồn nước. Tr�n thế n�i cao, m�y ngấm hơi nước v�o đất, chảy ra từ trong khe đ�. Người ta d�ng c�y bương, đục bỏ những c�i mắc l�m m�ng dẫn nước. Nhiều c�y bương nối nhau th�nh c�i m�ng d�i, đưa nước về tận ch�n nh� s�n. Nguồn nước v� tận ấy, chảy ho�i kh�ng dứt. Người thượng du lợi dụng nguồn nước thi�n nhi�n để l�m cối nước gi� gạo theo nguy�n tắc đ�nh đu, đ�n bẫy. Buổi s�ng, trước khi �giắt con dao quắm, v�c c�i x� gạc� l�n rừng, họ cho một lượng th�c vừa đủ ăn trong ng�y v�o cối. Cứ v�i ph�t, c�i ch�y gi� xuống một lần đều đặn. Chiều về, họ tr�t th�c ra nia, s�ng s�y lấy gạo nấu cơm. V� tr�n n�c nh� s�n, kh�i chiều nghi ng�t bốc l�n. Đời sống đơn giản, �m đềm biết bao. T�i mơ ước một đời sống như thế, kh�ng xuống t�c đi tu m� l�ng cũng tịnh y�n tho�t tục.
Những năm th�ng l�m người kh�ch bất đắc dĩ của miền thượng du, c� một dạo t�i được chỉ định chăn b�. Hai người chăn đ�n b� bốn mươi con. Một trong hai người ấy, chết v� bệnh sốt rừng. T�i l� người được điền v�o khoảng trống. Kh�ng phải ngẫu nhi�n. T�i vốn c� bệnh bao tử, lại kh�ng được điều trị bằng thuốc men. Ở đ�y, bất cứ bệnh g� cũng được điều trị bằng một phương ph�p rất ư l� qu�i đản. Lao động trị liệu, như chặt c�y, đốn củi, v�c nứa, cuốc đất, trồng khoai v.v� Trong t�nh huống ấy, t�i lu�n lu�n tạo cho m�nh bộ mặt nhăn nh� trường kỳ để mỗi lần, kẻ c� quyền nh�n thấy t�i như thấy một hiện tượng kh� chịu. Họ chỉ muốn đẩy t�i đi cho khuất mắt. Nhưng t�i cứ hiện diện, cứ �o uột sống ho�i. Cuối c�ng, họ cũng t�m được c�ch để �t phải nh�n mặt t�i. Đ� l� l� do t�i được chỉ định chăn b�. S�ng ra trại, m�i đến chiều mới v�c mặt trở về. Y�n th�n.
Buổi s�ng, mở cửa chuồng. Con b� b� đầu đ�n sẽ ra đầu ti�n, tự động đi theo người dẫn đường. Đ�n b� c�n lại, lần lượt k�o theo sau. V� một người đi sau c�ng, cầm roi đ�t v�o đ�t những con đi chậm, hoặc đưa mỏ ngấm ngh� cỏ l� dọc đường. Đến một khoảng đất trống n�o đ� người dẫn đường dừng lại. Đ�n b� sẽ ph�n t�n đi ăn chung quanh, tr�n những n�i đồi b�t ng�t m�u xanh. Trưa trời đứng b�ng, t�i che tay l�n miệng l�m loa, gọi: �B�ơi� B� ơi��. �m thanh vang vọng n�i rừng. Đ�n b� lục tục về điểm tập trung, nằm nhơi cỏ. L�c trời xế b�ng, t�i đ� đ�t con b� đầu đ�n đứng dậy, n�i lớn: �B� đi� ăn...� Đ�n b� lại ph�n t�n. Buổi chiều, t�i che tay l�m loa lần nữa, gọi: �B� về� B� về�� Tại điểm tập trung, sau khi đếm đủ số b� con b� đầu đ�n lại theo người dẫn đường về chuồng trại.
B� rất hiền v� kh�n, c� thể hiểu được một số tiếng người thường d�ng với n�. Những con b� chửa, nếu sinh con ngo�i rừng, b� con đi chưa vững, khi nghe tiếng gọi: �B� về��, b� mẹ sẽ giấu con trong l�m bụi để trở lại điểm tập trung. Nhưng n� sẽ lẩn quẩn kh�ng chịu về. Người chăn kh�ng biết n� mới sinh con n�n đ�nh đuổi, bắt phải về. B� con ở lại, im lặng một m�nh suốt đ�m trong rừng. S�ng ra, vừa mở cửa chuồng, b� mẹ chạy trước, qua mặt người dẫn đường, đến chỗ cũ đ�n con. Gần tới nơi, b� mẹ li�n tiếp k�u ọ� ọ� ọ� V� b� con đang trốn trong l�m, lảo đảo đi ra. N� mừng rỡ, quyến luyến, l�m nũng cọ dựa v�o mẹ. B� mẹ �u yếm bằng c�ch liếm khắp m�nh b� con. Nghĩ đến sự v� t�nh l�m chia c�ch mẹ con suốt đ�m qua, t�i vỗ nhẹ l�n đầu b� mẹ, vuốt ve b� con như một c�ch tỏ l�ng cảm th�ng, �n hận.
T�i nhớ trước đ�y, cũng đ� c� lần chứng kiến một cảnh n�o l�ng. Ngo�i bốn mươi con b� trại c� nu�i ba con tr�u: hai con tr�u gi� v� một con ngh�. Một ng�y gần Tết, người ta l�a tr�u cha v� con ngh� đi ăn. Ri�ng tr�u mẹ bị l�a v�o trại, giao cho nh� bếp l�m thịt. Chiều về kh�ng thấy mẹ, con ngh� đứng rống thảm thiết. S�ng h�m sau, vừa được mở cửa chuồng, hai con tr�u chạy xăm xăm v�o trại, đến trước nh� bếp. Tr�u cha đứng ng�c mỏ l�n trời, hả họng như k�u một tiếng v� thanh d�i x� ruột. Con ngh� c�i gầm xuống, đi chung quanh nh� bếp, k�u � ọ� � ọ� gọi mẹ v� ngửi đất. C�i hơi hướm của mẹ n� c�n phảng phất đ�u đ�y, sau khi bị phanh th�y xẻ thịt. Cuối c�ng, một điều hết sức đau l�ng, tr�u cha v� con ngh� đứng ngơ ngẩn nh�n nhau chảy nước mắt. Trời ơi, lo�i vật m� biết chảy nước mắt th� lo�i người cầm l�ng sao đang! Li�n tiếp cả mười ng�y sau đ� buổi s�ng n�o trước khi đi ăn, tr�u cha cũng dẫn con ngh� đến trước nh� bếp đứng kh�c. Cảnh tượng ấy, kh�ng bao giờ t�i qu�n. Kh�ng bao giờ qu�n.
C� lẽ, những ng�y đi chăn b� l� thời gian nh�n du thoải m�i nhất của đời t�i. Lang thang giữa n�i rừng. Đứng tr�n cao, ngắm m�y đ�n l�n từ những lũng s�u, lướt thướt k�o qua ch�n n�i. Trong ph�t chốc, t�i bỗng thấy m�nh như kẻ tu ti�n l�nh đời, t�m thuốc trường sinh trong hoa ng�n cỏ nội. T�i cũng thường ngang qua nương rẫy. Gh� lại ngồi chơi với cụ gi� người Dao. Cụ dạy t�i h�t thuốc l�o m� kh�ng cần c�i điếu c�y. Bằng c�ch miệng ngậm nước, quấn thuốc trong chiếc l� ch�m lửa, r�t một hơi d�i, �m kh�i v� nhổ nước ra. T�i tập nhiều lần, nhưng kh�ng l�m được. Cụ kể t�i nghe về phong tục tập qu�n người d�n th�n bản. Kể t�i nghe về đời cụ. Một điều l�m t�i ngạc nhi�n, cụ chưa bao giờ đi đ�u xa qu� một ng�y đường. T�i ước lượng khoảng c�ch ấy, kh�ng hơn năm mươi c�y số. Cụ hỏi t�i từ đ�u đến đ�y, v� tại sao t�i n�i được tiếng Việt? Qua c�u hỏi, t�i biết trong th�m t�m cụ, miền Nam l� một nước kh�c. Cụ c� vẻ buồn khi nhắc đến những người con trai của n�i rừng, bỏ th�n bản đi l�m giải ph�ng miền Nam. Phần đ�ng đi biệt kh�ng về. Một số rất �t trở về, kể chuyện S�i G�n c� c�i nh� lầu cao bảy tầng v� th�nh vua rất tr�ng lệ. Cụ kh�ng tin con người c� thể cất được c�i nh� bảy tầng. Nhưng tin rằng, nếu vua S�i G�n kh�ng chịu đầu h�ng th� qu�n C�ch Mạng sẽ bắn n�t th�nh vua. Nh�n chuyện cụ gi� t�i nhớ tr�n chuyến xe lửa chở t� l�n Y�n B�i. Một người bộ đội hỏi t�i, thằng Pho c� đi học tập chuyến n�y kh�ng? T�i hỏi lại, thằng Pho n�o? Thằng Pho (Ford), tổng thống Mỹ đấy. T�i đ�p gọn, n� đang ở b�n Mỹ. Anh ta tiếc rẻ, thế � N� cũng chạy tho�t? Uổng thật! D�n tr� như thế, m� người ta tuy�n truyền rằng �nh s�ng văn minh đ�n điện đ� soi rọi khắp c�c v�ng n�ng th�n, rừng n�i.
T�m hồn người thượng du mộc mạc như đời sống của họ. S�ng sớm, rời m�i nh� s�n, họ l�n rẫy hoặc đi săn bẫy th� rừng. Bước ch�n kh�ng c� tiếng động. �m thầm hoang d�. Thỉnh thoảng, nghe tiếng đốn c�y vọng lại. C�i �m thanh kh� khốc lẻ loi như từ thinh kh�ng rớt xuống n�i rừng u tịch. Buổi tối, những người trẻ đi ngủ rất sớm. Người gi� ngồi trầm ng�m trong �nh s�ng chập chờn của ngọn đ�n dầu chai. Đời họ, kh�ng c� g� vui, cũng chẳng c� g� buồn. Thời gian lặng lẽ tr�i qua, họ tưởng như thi�n nhi�n mu�n đời vẫn thế. L�m sao họ nh�n thấy được sự biến đổi chậm chạp của n�i rừng, khi cuộc đời qu� ngắn.
Mấy mươi năm về trước, c� một số người miền xu�i, đi l�nh T�y, bị đ�y l�n đ�y. B�y giờ, họ đ� gi� lắm. V� con ch�u họ cũng đ� trở th�nh người của thượng du, nhưng họ kh�ng ở nh� s�n. C�i s�n trước nh� kh�ng mọc cỏ. Chung quanh c� trồng v�i loại c�y ăn tr�i. Ở m�i một nơi n�o rồi cũng nhận nơi đ� l�m qu� hương. Nếu đời cha kh�ng nhận, đời con cũng nhận. Thi�n địa v� nh�n. N�i rừng kh�ng v� một ai hết. Trời đất lặng thinh. Bốn m�a vẫn lu�n chuyển nắng mưa. Hoa l� tr�n ng�n vẫn xanh thắm. Kh�ng v� mặc cảm đọa đ�y m� con người gh�t cả thi�n nhi�n.
Một ng�y mưa dầm, t�i được lệnh chuyển trại. Thời thế đ� đến hồi gay cấn. Qu�n của hai b�n đ� d�n ra, đối mặt tr�n bi�n giới. Rồi đ�y, n�i rừng lại ầm vang tiếng s�ng. Người d�n hiền ho� v� tội của th�n bản l� nạn nh�n trực tiếp hứng chịu những sấm s�t do ch�nh con người g�y ra.
Con đường ph�a trước t�i, kh�ng biết sẽ về đ�u. Tr� t�i bỗng hiện ra những dốc đ�o uốn kh�c sơn kh�. Những con suối m�a chảy xiết ng�y mưa. Những th�n bản im vắng trưa h�. T�i như nghe tiếng chim bắt-c�-tr�i-cột gọi buồn th� thiết. Nghe con �o-d� con nai đ�m đ�m �b�c� ngo�i đồi tranh hiu quạnh. Nh�n lại, l�n trại đ�u hiu. C�i sạp, nơi t�i nằm trống hoang lạnh lẽo. Mới đ�y m� cơ hồ đ�ng bụi. C�i ống bương đựng nước rửa mặt mỗi s�ng, nghi�ng đổ dưới s�n. C�i gi� phong lan, t�i đem về từ ngo�i rừng treo tr�n v�ch nứa, như cũng c� hồn biết rầu rĩ chia xa. H�ng r�o trại kh�ng c�n cần thiết nữa, bị ph� một khoảng để lấy lối đi tắt, cũng l�m t�i nao l�ng. Chẳng phải t�i đ� từng kh� chịu v� c�i h�ng r�o n�y, v� mong được ở ngo�i v�ng kiềm toả của n� hay sao? Rời khỏi nơi đ�y, một chốn đ� trở th�nh th�n quen, tất cả những g� bỏ lại đều l�m t�i thương nhớ. Ra đi, t�i ng� lại trong mưa, những d�y n�i Ho�ng Li�n Sơn m� m� đẹp như tranh v� h�ng vĩ biết bao.
Xin ch�o từ biệt những người c�ng chung cảnh ngộ, đ� đến đ�y v� vĩnh viễn nằm lại n�i rừng thượng du.

L�m Chương

No comments: