Monday, May 26, 2008

Lỗi tại tôi mọi đàng


Mùa xuân năm 85, tôi về quê. Quê tôi ở Gò Chùa, nằm trên quốc lộ nhưng vẫn là nhà quê. Tôi bốn mươi tuổi, tóc đã có nhiều sợi bạc. Tôi không có tiền, không nghề nghiệp, sống nương tựa vào ba tôi.
Ba tôi bảy mươi hai tuổi, là người tàn phế. Ông mất cánh tay phải trong thời kỳ chiến tranh. Hiện nay, ông sống nhờ vào tiền của anh tôi, gởi về từ Canada. Số tiền này chỉ đủ ăn tiện tặn. Muốn mua sắm những thứ lặt vặt trong gia đình, ba tôi nuôi con heo nái, và nấu rượu. Nấu rượu không có lời, nhưng có hèm trộn chung với cám làm thức ăn cho heo. Mỗi năm, bán được mấy lứa heo con cũng được đồng ra đồng vào.
Hàng ngày, tôi đi quanh quẩn lối xóm, mặt mày ủ dột. Không nghĩ ra việc gì làm để khỏi bám vào ba tôi. Tôi đói lắm. Đói nhiều năm trước khi về đây. Tôi cần ăn mà mỗi lần bưng chén cơm, tôi như mắc nghẹn. Tôi còn đầy đủ tay chân, làm sao thanh thản nuốt miếng cơm của người cha già tàn tật?
Tôi đi ra đồng, lủi vào rẫy mía hái những thứ rau sam, rau dệu mọc hoang. Gió lay cờ mía bay trắng đồng, vướng cả trên đầu, trên áo tôi. Loài chim sâu luýt chuýt kiếm ăn trong mía, thấy có người bay vụt lên. Lúc tôi chui ra, gặp ông cụ vác cuốc đi tới.
Cụ hỏi: “Làm gì trong ấy?”
Tôi cầm bó rau giơ lên.
Cụ nói: “Rau dại ư? Đứng đó.”
Cụ lủi ngay vào rẫy mía, lối tôi vừa chui ra. Cụ không tin tôi, muốn kiểm soát xem có cây mía nào bị bẻ trộm. Mặt tôi ra sao mà ai cũng nghi ngờ trộm vặt? Tôi nghĩ, con người có cái vận. Khi vận mạt thì khí sắc bệ rạc, che lấp cái vẻ đường hoàng khả tín. Có phải mặt tôi tôi bây giờ như thế?
Cụ già chui ra, dịu giọng: “Lần sau đừng vào rẫy.”
Tôi nín thinh bỏ đi.
Tôi đem rau về, giấu sau hè. Lúc ba tôi đi khỏi, tôi luộc rau ăn thêm. Nhiều lần như thế. Có lần ba tôi về bất ngờ, thấy tôi đang ngồi với rổ rau. Không giấu được nữa, tôi gượng cười. Ba tôi đứng sững nhìn tôi, rồi quay đi không nói gì.
Buổi tối. Dưới ngọn đèn dầu, ba tôi ngồi quấn thuốc rê. Ông xe tròn điếu thuốc trên mặt bàn bằng bàn tay còn lại. Tôi ngồi trong góc tối, nhìn sự thiếu hụt một phần thân thể của ông. Tôi nghĩ, không phải chỉ có thế. Nó còn ảnh hưởng rất lớn đến sự thiếu hụt của tâm hồn, đưa đến buồn chán an phận một kiếp người.
Dì tôi đi ngủ rất sớm. Dì ngủ và thức cùng giờ với gà. Trời chưa chạng vạng, gà đã vào chuồng. Mới bốn năm giờ, gà gáy báo hiệu bình minh. Dì thức dậy, không để làm gì cả. Dì chong đèn ngồi lặng cho đến khi trời sáng. Tôi gọi mẹ kế bằng dì. Mẹ ruột tôi mất. Năm năm sau, ba tôi rước dì về làm vợ. Lúc đó, tôi mười ba tuổi. Dì ở với ba tôi, ba mươi năm không có con. Miệng đời xoi mói rằng trước khi về với ba tôi, dì đã lang chạ với nhiều đàn ông. Dì ít nói đến độ tôi không biết tình cảm của dì ra sao. Dì không nói câu gì làm tôi buồn, cũng không tỏ thiện cảm với tôi.
Tôi về hai mươi mốt ngày, ba tôi bán lứa heo con. Tiền bán heo cất trong tủ. Xâu chìa khóa treo ở cây đinh, khuất sau tủ.
Mấy ngày sau, ba tôi nói: “Tiền bán heo mất sạch rồi.”
Dì nhìn tôi, dò xét.
Tôi không biết nói sao, bỏ ra ngoài hiên ngồi hút thuốc. Dưới chân tôi, những con kiến đen đi tìm mồi. Nắng xế chiều xuân gay gắt lắm. Trời cao và xanh, gợn vài cụm mây nhỏ. Nỗi đời hốt biến như mây chó.
Một bà quảy gánh đi ngoài đường, hỏi vọng vào: “Có đồ gì cũ, bán không?”
Tôi nói: “Có tôi. Mua tôi không?”
Bà nhìn tôi: “Mặt không đáng đồng xu.”
Tôi chợt nhớ có mấy cái muỗng nĩa bằng inox, và đôi dép nhựa đứt quai.
Tôi gọi: “Bà ơi, vào đây.”
Bà cầm muỗng nĩa lên coi: “Tất cả mười đồng.”
Tôi nói: “Mười lăm.”
Bà quảy gánh lên vai.
Tôi nói: “Mười đồng, lấy đi. Còn đôi dép?”
Bà nói: “Cho thì lấy. Không mua.”
Tôi cất tiền trong túi, bâng quơ nhìn đàn gà bươi dưới gốc hàng rào cây dâm bụt. Nhà đang dọn cơm chiều. Tôi bỏ đi lang thang. Chiều tối mịt, tôi ghé quán cà phê. Cà phê sữa, mười hai đồng. Cà phê đen, tám đồng. Tôi uống cà phê đen. Dư hai đồng, tặng luôn cho cô gái chạy bàn. Quán vắng. Bóng đèn nhỏ bằng đầu ngón tay, dùng điện bình acquy, ánh sáng mờ mờ buồn thảm. Tôi ngồi im lặng. Ly cà phê đã hết từ lâu. Tôi ngồi im lặng như thế, thật lâu. Buồn tay, tôi quậy chiếc muỗng chạm lanh canh trong cái ly không.
Cô gái hỏi: “Chú dùng thêm gì?”
Tôi lắc đầu.
Cô lại hỏi: “Có phải chú là cái chú gì cải tạo mới về đó không?”
Tôi nói: “Phải rồi.”
“Được về thì mừng. Sao chú buồn?”
Tôi nói một câu rẻ tiền: “Đời chẳng có gì vui.”
Nói xong, tôi chào cô gái và ra khỏi quán.
Ba tôi ngồi ngoài hiên chờ tôi về. Đèn trong nhà hắt sáng yếu ớt sau lưng làm khuôn mặt ông tối hẳn, như cái bóng đen in trên nền phong hư ảo.
Ba tôi nói: “Còn chừa phần cơm cho con.”
Tôi đói lắm, nhưng nói: “Con không đói.”
Ba tôi nói: “Con đừng làm thế. Ba không nghi cho ai cả.”
Tôi nghĩ, thân phận tôi, ai cũng nghi ngờ là kẻ gian. Chỉ có ba tôi tin tôi.
Ba tôi nói tiếp: “Ba đã biết người lấy tiền.”
Tôi nghĩ, ba tôi hiểu tôi là đủ rồi.
Ba tôi kể: “Ba dời cái ổ gà đẻ, phát giác ra số tiền cất giấu dưới đáy ổ gà. Dì con nói ăn ở với ba không có con. Sợ khi chết không ai lo nên tự lo trước cho mình. Dì con muốn mua bộ táng đá xây mả.”
Tôi gục đầu. Xót cho ba tôi. Xót cho Dì. Xót cho tôi. Ai cũng muốn làm người tốt, hoàn cảnh cứ xô vào ngõ cụt.
Ba tôi và tôi ngồi đấy. Đêm xuân mà đất trời mờ mịt, oi bức. Muỗi bay vo ve bên tai. Ngoài đường, toán du kích xã đi tuần ngang qua. Họ cười nói oang oang. Súng đạn khua lách cách. Bên nhà hàng xóm có tiếng chó sủa.
Tôi nói: “Con muốn gặp Minh, giải quyết vấn đề một lần cho xong.”
Ba tôi nói: “Đừng. Thằng bồ của nó sẽ đưa con vào tù đấy.”
“Con không làm điều gì rắc rối.”
“Cũng đừng. Ngày con đi tù, nó còn trẻ quá không chờ được. Không phải lỗi tại nó đâu.”
Không phải lỗi tại nó đâu. Lỗi tại ai? Tôi hỏi lòng tôi như thế. Đêm xuân mà đất trời mờ mịt. Tôi dõi mắt nhìn xa hơn, chỉ thấy mờ mờ như ảo giác. Tất cả đều là ảo giác, là phù du, kể cả đời này.
Ngày mồng tám tháng ba, Dì tôi làm bữa ăn ngon. Thịt cá rau cải chiên xào đầy đủ. Dì không tuyên bố một lời.
Ba tôi nói: “Hôm nay, mừng tuổi sáu mươi tư cho dì của con.”
Tôi nắm hai bàn tay, đưa lên trán rất trịnh trọng: “Con chúc dì sức khỏe tốt, sống lâu trăm tuổi.”
Dì nói: “Già quá, chỉ khổ thân. Lúc nào mắt lòa tai điếc, chết đi là vừa.”
Tôi ăn. Và nghĩ đến những điều giả dối. Mọi người rõ mặt nhau mà không rõ lòng nhau. Tội nghiệp dì tôi. Sáu mươi tư tuổi, dì vẫn cô đơn khép kín trong nhà này. Ba tôi cũng cô đơn bên người đàn bà khép kín. Tôi thì quá đau khổ hận đời. Bộ mặt lầm lì, còn gần gũi được với ai?
Chúng tôi đang ăn, có anh du kích đứng trước cửa, hỏi lớn: “Ở đây có ai tên Lâm?”
Ba tôi buông đũa đi ra: “Nó là con tôi. Có chuyện gì không?”
Du kích chìa tờ giấy: “Có giấy mời lên xã.”
Ba tôi cầm tờ giấy quay vào, thắc mắc: “Không biết chuyện gì?”
Tôi nói: “Chuyện gì cũng vậy thôi.”
Ba tôi nói: “Đụng tới bọn này phiền lắm.”
Từ lúc nhận giấy mời, bữa ăn mất ngon. Dì tôi không nói câu gì.
Tôi lên xã, được lệnh chuẩn bị ngày mai đi công tác thủy lợi.
Ba tôi hỏi: “Tù mới về, còn trong thời hạn quản chế. Sao bắt đi thủy lợi?”
Tôi nói: “Mỗi địa phương có một ông vua con, áp dụng luật rừng xanh.”
Ba tôi than: “Toàn là luật lệ chết người.”
Tôi nói: “Trong tù lao động, có cơm tù. Về đây lao động, lấy gì ăn?”
Ba tôi lặng lẽ vào nhà bếp xúc cho tôi bọc gạo, gói vài con cá khô, nhét chút tiền đi xe.


Tôi ngồi xe Lam đi Bến Mương, lội bộ hơn cây số đường đất là vào tới chỗ công tác thủy lợi. Nhiều người đến trước đang dọn chỗ trong căn nhà trống. Có lẽ xưa là nhà hội của dân Bến Mương. Phía trái cách căn nhà vài chục bước có cây đa già, độ tuổi trăm năm. Tàng cây cao rộng, phủ một vùng bóng lớn. Trên nhánh cây thòng xuống những rễ phụ, đâm xuống đất. Nhiều rễ lâu năm, to bằng cột nhà.
Toán thủy lợi gồm hai mươi tám người. Đàn ông đàn bà, già trẻ đủ mặt. Toán chia làm hai nhóm. Mỗi nhóm có một nhóm trưởng. Tôi bốn mươi tuổi, già nhất, được chỉ định làm toán trưởng coi hai nhóm trưởng. Làm toán trưởng cũng là làm chơi thôi. Mọi sự đôn đốc kiểm soát đã có đốc công. Bốn đốc công, coi hai mươi tám người. Lại có thêm một đốc công trưởng, coi bốn đốc công. Ông này có súng K54, mang bên hông rất oai. Tổ chức chặt chẽ qua nhiều tầng lớp kiểm soát, nhưng khi bắt đầu làm việc thì tất cả đốc công đều vắng mặt. Họ vào xóm Bến Mương ăn nhậu, hoặc tán gái. Chúng tôi cầm xẻng cuốc đứng dưới lòng kênh, thỉnh thoảng hất một xẻng đất lên vá những chỗ đê vỡ. Làm việc ầu ơ lấy có. Phần lớn thì giờ là nói chuyện tầm phào, kể chuyện tiếu lâm. Mấy chị đàn bà rất thích nghe chuyện tục. Họ cười nhiều nhất.
Đến trưa, mọi người tự động ngưng làm, vào nấu ăn. Gạo để chung, đồ ăn chung. Đàn bà lo nấu nướng. Đàn ông ngồi hút thuốc tán gẫu, chờ cơm.
Tôi mắc võng vào hai chiếc rễ phụ của cây đa, tránh sự ồn ào trong căn nhà trống.
Một chị nói: “Nằm đây nguy lắm. Cây này có nhiều rắn lục.”
Tôi nói: “Chỉ nằm nghỉ trưa.”
Chị nói: “Ừ. Ban đêm thì không nên.”
Buổi chiều. Hai mươi tám người ra đê, chống cuốc xẻng phơi nắng vài tiếng đồng hồ, lại vào nghỉ.
Sau một ngày rong chơi, các đốc công trở về. Có người nồng hơi rượu. Họ ra đê kiểm soát công việc.
Lúc trở vào, có người nói: “Thời gian có hạn. Bà con làm thế thì bao giờ cho xong? Mai cố gắng lên nhé.”
Một chị trẻ bĩu môi, nói: “Đợt này không xong. Đợt sau làm tiếp.”
Anh đốc công đi lại, vỗ vào đít chị trẻ: “Lắm lời chanh chua cong cớn này!”
Chị trẻ vênh mặt : “Thì sao?”
Anh đốc công cười hì hì, cúi sát mặt chị trẻ: “Tối nay phạt cái tội lười biếng.”
Chị khác xía vào chuyện: “Mười người như anh, nó cũng không sợ.”
Anh đốc công hỏi: “Em sợ không?”
Chị nói: “Cỡ anh, tôi chấp hai chục.”
Bọn đàn ông vỗ tay cười đùa.
Cơm chiều xong. Những anh đốc công theo ve vãn mấy chị đàn bà. Vài chị đi với họ suốt đêm. Số còn lại, ngủ trong căn nhà trống.
Nhiều đêm khó ngủ, tôi thấy có kẻ lén chui vào mùng người khác. Có một cặp, đêm nào cũng dìu nhau ra gốc cây đa. Vài hôm sau, tôi biết chị đàn bà dọa tôi có rắn lục là người được dìu ra gốc cây đa, lúc nửa khuya. Chị không sợ rắn lục.
Gần sáng. Tiếng gà gáy vẳng lại từ xóm Bến Mương là lúc những kẻ lộn sòng trở về đúng vị trí của mình. Công việc thủy lợi lại bắt đầu như mọi ngày bình thường.
Ngày thứ mười lăm, ông đốc công trưởng tuyên bố: “Hôm nay là ngày cuối cùng, tôi cho bà con nghỉ việc buổi chiều. Trước khi chia tay, tôi đề nghị bà con tùy khả năng mỗi người, đóng góp chút tiền hùn mua vài con gà và lít đế làm tiệc liên hoan mừng công tác tu sửa hệ thống thủy lợi đã tiến hành thuận lợi và hoàn tất tốt đẹp. Có ai có ý kiến gì không?”
Mọi người vỗ tay tán thành lời đề nghị văn hoa của ông đốc công trưởng.
Kiểm lại số tiền đóng góp xong, ông chỉ định: “Anh toán trưởng đi mua gà với tôi.”
Tôi nói: “Vâng.”
Trên đường vào xóm Bến Mương, ông đốc công trưởng nói: “Anh ít nói nhỉ?”
Tôi trả lời: “Tôi không có gì để nói.”
Chúng tôi hỏi mua gà nơi nhà của một người quen với ông đốc công trưởng. Ông gọi người này là anh Sáu Lự. Anh chịu bán và bảo vợ lo bắt gà. Chị Sáu Lự ra sân rải thóc, chu miệng gọi gà: “Chúc chúc chúc...”
Đàn gà đang kiếm ăn rải rác ngoài vườn, nghe tiếng gọi chạy về mổ thóc trên sân. Có con gà trống lớn không lo ăn, chỉ lo dụ khị con gà mái tơ để đạp mái. Sau khi thỏa mãn, nó vỗ cánh vươn cổ gáy ò ó o ò o...
Ông đốc công trưởng cười nhìn chị Sáu Lự, và bắt chước giọng gà: “ Ò ó o ò o... Đời có thế mà thôi..!”
Chị Sáu Lự cũng cười, mắng: “Đồ quỷ quái!”
Quả thật là đồ quỷ quái. Đời có thế mà thôi. Sao tôi cứ loay hoay buồn rầu khốn khổ với đời?


Sau đợt công tác thủy lợi. Tôi về vẫn y như tình trạng cũ. Buồn nản. Quẫn trí.
Ba tôi đưa bộ truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung, bảo: “Đọc đi.”
Tôi nói: “Còn tâm trí đâu mà đọc.”
Ba tôi nói: “Thằng Lệnh Hồ Xung bị cả hai phái hắc bạch giang hồ chối bỏ, đến nỗi phải than trời đất mênh mông mà ta không còn chỗ dung thân, nhưng cuối cùng nó cũng đâu có chết.”
Tôi nói: “Chuyện hư tưởng, đọc để mua vui. Không thể lẫn lộn giữa thực và mộng.”
Ba tôi nói: “Không sống với thực được thì trốn vào mộng. Đau khổ mãi ích gì?”
Tôi nói: “Con đang suy tính một việc làm.”
Ba tôi bảo: “Hãy viết thư sang Canada cho anh con.”
Tôi nói: “Người ta chỉ giúp ngặt, không giúp nghèo.”
Ba tôi nói: “Đây là lúc ngặt của con.”
Ông đưa giấy bút cho tôi. Tôi viết:
Ấp Gò Chùa ngày... tháng... năm...
Kính gởi anh chị Hai,
Trước tiên, em có lời thăm anh chị và chúc sức khỏe.
Ở nhà, Ba và Dì vẫn khỏe. Vẫn nuôi heo, nấu rượu bình thường.
Sau đây, em xin nói về phần em. Em đi cải tạo mười năm, có tiến bộ về mặt tư tưởng. Được Đảng và nhà nước khoan hồng cho về với gia đình, góp phần xây dựng xã hội mới. Hiện tại, em chưa được bố trí việc làm. Vì vậy, đời sống chưa được đảm bảo tốt. Em mong anh chị vì chút tình ruột thịt mà giúp cho em một số tiền để sống, và chờ đợi...
Một lần nữa, em xin chúc anh chị bình yên, vui tươi, hạnh phúc.
Giấy ngắn tình dài, em xin dừng bút tại đây.
Em của anh chị.
(Ký tên)
Tái bút: Vợ em thì coi như diều đứt dây rồi. Không còn gì để nói.
Tôi đưa lá thư cho ba tôi đọc lại. Đọc xong, ông vò lá thư ném vào lò nấu cám heo.
Ba tôi nói: “Nó sợ Đảng và nhà nước mà bỏ chạy. Viết thế này thì một xu cũng không được.”
Tôi lặng người. Có một nỗi gì thấm thía của gã ăn mày bị từ khước.
Lúc ấy, dì tôi đi đâu bên ngoài vừa về tới.
Dì nói: “Cô Bảy Mỹ Quang nhắn con sang nhà, bàn chuyện gì đấy.”
Cô Bảy là em họ của ba tôi. Trước kia, cô là chủ tiệm Mỹ Quang buôn bán đồ điện ở Sài Gòn. Sau hai đợt đánh tư sản mại bản, cô sạt nghiệp phải lui về Gò Chùa, làm bún kiếm ăn qua ngày. Con trai của cô làm ở Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, đi cải tạo chưa về. Còn đứa con gái theo chồng vượt biên, biệt tăm luôn. Nhiều người cho rằng, vợ chồng con gái của cô đã chui vào bụng cá mập.
Cơm chiều xong, tôi sang nhà cô Bảy. Dượng Bảy lúi húi nấu nước pha cà phê.
Cô Bảy nói: “Con được về là gia đình mừng. Nhưng ba và dì của con cho biết, con mặc cảm có ăn mà không có làm. Cô có công việc cho con.”
Tôi mừng, đợi nghe cô nói tiếp. Dượng Bảy đem hai ly cà phê đặt lên bàn. Dượng cười. Hàm răng cửa chỉ còn mấy chiếc chơ vơ thảm hại.
Dượng nói: “Con phụ làm bún với dượng.”
Tôi nhận lời ngay. Đối với tôi bây giờ, việc gì cũng được.
Buổi sáng. Cô Bảy ngồi bán bún ở chợ. Tan chợ, cô gánh bún đi lòng vòng lối xóm đổi gạo. Dượng Bảy và tôi ở nhà xay bột, bồng bột.
Buổi chiều. Cô Bảy về nhà, Dượng và tôi lại nhồi bột, nắn lại từng khối tròn như trái banh. Luộc bột trong một cái trã lớn. Cô Bảy vớt khối bột ra, cho vào cối. Dượng và tôi chèo bột, dùng sức đến đổ mồ hôi. Rồi nắn bột thành những khối hình trụ, cho vào cối ép thành sợi. Việc này cần sức nặng mà Dượng và tôi đều ốm nhom, phải bê thêm cái cối dằn lên cho tăng phần trọng lượng. Sợi bún chảy xuống nồi nước đang sôi. Lại trút bún ra, cho vào nước lạnh. Cô Bảy vớt con bún rê thành từng lọn là lúc dượng và tôi ngồi thở. Sau đó, tôi gánh nước luộc bột về cho ba tôi nuôi heo. Ít ra, trong nước luộc cũng còn vương chút bột, góp phần làm con heo mau lớn. Công việc loay hoay mệt nhọc như thế, xong xuôi vào lúc nhà lên đèn.
Cô dượng làm bún chỉ đủ ăn. Tôi làm bún để có ăn, không có lương. Lâu lâu, cô Bảy cho bánh thuốc rê và cuộn giấy quyến.
Mấy hôm nay, có gánh hát Cải Lương Hồ Quảng ghé xã. Cô Bảy cho tiền bảo tôi đi coi. Tôi đi trong màu trăng. Trời trong và trăng sáng lắm. Bóng tôi in trải trên đường. Chỉ mình tôi với bóng. Buồn và cô đơn khủng khiếp. Tôi đi đến chỗ có ánh đèn điện sáng choang, người người đông đảo lao xao. Hội trường được che chắn chung quanh làm rạp hát. Phía trước, dựng lều căng bạt bán cà phê, nước giải khát, bánh kẹo, thuốc lá và thức ăn. Người ta chen chân nhau vào cửa rạp. Tôi không muốn vào. Tôi đi loanh quanh. Lòng tôi nguội lạnh, lẻ loi. Cuối cùng, tôi ngồi dưới một mái lều bán cà phê. Cô bán hàng là người quen, tên Giang. Giang là bạn của vợ tôi. Trước kia, Giang làm ở Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam. Thời thế thay đổi, Giang đem con về sống ở quê. Chồng vượt biên sang Mỹ, nghe đâu đã có vợ khác rồi.
Giang bưng cà phê cho tôi, rồi ngồi ở phía sau chiếc bàn bày hàng.
Giang hỏi: “Anh về có khỏe không?”
Tôi nói: “Khỏe.”
Giang lại hỏi: “Có gặp chị Minh không?”
Tôi lắc đầu: “Thuộc về quá khứ rồi. Gặp làm gì nữa.”
Giang nói: “Chị Minh cũng vì hoàn cảnh.”
Tôi nói: “Một trăm người đàn bà phụ bạc cũng đổ thừa hoàn cảnh. Chồng em có liên lạc về không?”
Mắt Giang thoáng chút xa xôi buồn bã: “Coi như nước xuôi ra biển, không trở lại nguồn.”
Tự nhiên tôi thấy tội nghiệp Giang hết sức. Tôi nghĩ, tôi với Giang là người đồng cảnh, dễ tội nghiệp cho nhau.
Tôi hỏi: “Em dọn hàng về lúc nào?”
Giang nói: “Thưa người là em dọn.”
Tôi hỏi: “Đồ đạc nhiều quá, làm sao một mình em đem hết?”
Giang nói: “Em đi làm hai lần.”
Tôi nói: “Anh sẽ phụ với em. Một lần là xong.”
Giang ngại: “Có phiền anh không?”
Tôi nói: “Phiền gì? Anh cũng đang rỗi rảnh.”
Có mấy người khách ngồi vào bàn cà phê. Giang lo tiếp khách. Tôi đứng dậy bỏ đi. Tôi đi vòng ra phía sau hội trường. Có những cặp tình nhân đứng nép vào nhau, dưới bóng tối những tàn cây. Tôi nghĩ, ở đâu người ta cũng có thể nói chuyện tình yêu. Cái thứ tình cảm quỷ quái này, nó đánh lừa tất cả. Mới đầu tưởng nó là hạnh phúc, nhưng sau đấy là những thất vọng chán chường đau khổ. Tôi cũng thế, tôi cũng bị lừa.
Khi tôi quay lại chỗ Giang. Giang nói: “Tối nay em nghỉ sớm.”
Tôi phụ Giang xếp những đồ đạc lên xe ba gác. Một xe cồng kềnh đầy nhóc.
Tôi hỏi: “Còn cái bàn, chắc phải đi thêm chuyến nữa?”
Giang nói: “Để lại. Ngày cuối cùng dỡ lều sẽ đem về luôn.”
Giang cầm càng xe. Tôi đẩy ở phía sau. Trên đường về, trăng sáng lắm. Dọc đường, Giang kể về cuộc sống vất vả sau ngày chồng bỏ đi. Tôi kể chuyện làm bún. Giang đùa rằng tôi có cái tướng của ông chủ lò bún tương lai. Giang và tôi cùng cười. Nói chuyện với Giang, tôi nghe nhẹ cả lòng.
Đến nhà, Giang bảo: “Để nguyên như thế, cho cả chiếc xe vào nhà. Mai lại đem đi.”
Tôi đứng tần ngần. Nửa muốn nán lại, nửa muốn về.
Giang đến gần tôi, hỏi nhỏ: “Có ai chờ anh ở nhà không?”
Tôi nói: “Không.”
Giang nói như nói thầm: “Thế thì nghỉ lại đây với em.”
Tôi quàng vai Giang.
Giang vùng ra: “Cho em đi tắm.”
Tôi ra đứng ngoài sân, nghe tiếng giội nước sau hè. Tôi hình dung ra thân thể nở nang của người đàn bà một con, da thịt trắng ngần loang loáng nước dưới trăng. Tôi háo hức đợi chờ. Lúc sau, tôi bước vào nhà. Giang mặc áo cánh mỏng, đang lúi húi khêu tim đèn. Tôi ôm ghì lấy Giang.
Giang nói: “Từ từ, anh...”
Tôi thổi tắt phụt ngọn đèn, dìu Giang đến chiếc giường, nơi có ánh trăng mờ mờ xuyên qua đầu hồi. Tôi ôm Giang, vuốt ve hôn hít. Giang thở dồn dập. Tôi cũng thở dồn dập. Bao nhiêu rạo rực dục tình dồn nén trong mười năm trời, bỗng tuôn ra tháo đổ khi chưa kịp cổi áo quần. Tôi xấu hổ, cố giấu Giang. Tôi lặng đi một lúc, rồi tiếp tục vuốt ve hôn hít, mong mau chóng hâm nóng lại dục tình. Nhưng bất ngờ Giang sờ tay xuống dưới, đụng phải vật mầm nhũn.
Giang xô tôi ra, kêu lên: “Em biết tại sao chị Minh bỏ anh rồi.”
Tôi hoảng hốt: “Không phải thế đâu.”
Giang vùng dậy, thắp đèn: “Em xin lỗi. Anh về đi.”
Tôi đi về trong đêm trăng sáng. Khuya vắng đến rợn người. Tôi nghe tim mình đang lay lắt trong lồng ngực, nghe rõ cả bên ngoài tiếng côn trùng rên rỉ. Buồn và cô đơn khủng khiếp. Tôi nghĩ, đời vẫn dành cho tôi nhiều ưu ái. Tại tôi làm hư việc. Lỗi tại tôi mọi đàng. Tôi đi. Bóng tôi in trải trên đường. Chỉ mình tôi với bóng.

Lâm Chương
Thượng du, niềm thương nhớ


Ngược d�ng Th�c B� l�n tận thượng nguồn dựng trại. Trại nằm trong thung lũng, s�t ch�n n�i. N�i kh�ng c� t�n. N�i chập ch�ng tr�ng điệp, đếm kh�ng hết. Cả một v�ng bao la n�i non hiểm trở trải d�i l�n tận bi�n giới, mang chung một t�n Ho�ng Li�n Sơn.
Một thời kỳ n� lệ xa x�i, người da đen Phi Ch�u bị l�a xuống t�u đi biệt xứ. T�i cũng bị l�a xuống t�u, nhưng chưa ra khỏi lằn ranh xứ sở. Thời gian kh�ng l�u m� tưởng chừng qua một kiếp. Bỏ đời cũ. Qu�n những buộc r�ng qu� khứ. Trong nghiệt ng� suy tư nhiều sẽ kh�ng sống nổi. Dằn vặt với thương đau, sẽ kh�ng c�n mạng trở về. Tinh thần đi xuống, th�n x�c kh�ng thể đi l�n. H�y xem mọi sự h�nh x�c l� b�nh thường. T�i nghĩ thế, v� thản nhi�n �ch�m tre đẵn gỗ tr�n ng�n�, dựng trại.
L�n trại lợp bằng nứa, chung quanh c� r�o. H�ng r�o cũng l�m bằng nứa bắt ch�o v�o nhau, đầu ch�ng nhọn hoắt. Trưởng trại n�i r�o để cản th� dữ, nhưng ai cũng biết r�o để ngăn người từ trong tho�t ra ngo�i. Cổng trại l� lối ra v�o độc nhất, c� ch�i canh kiểm so�t. B�n h�ng trại, c�n một ch�i canh nữa, cao bằng ngọn c�y để quan s�t to�n trại. Tr�n đ� đặt một họng s�ng đại li�n chỉa mũi v�o trại. Nơi miền cao th�n bản, s�ng đạn l� thứ duy nhất tượng trưng văn minh của người miền xu�i.
Ở đ�y, kh�ng đo thời gian bằng kim đồng hồ. Trưa nghe chim bắt-c�-tr�i-cột k�u tr�n đầu n�i, biết đang m�a hạ. Đ�m nằm nghe c� r�c ngo�i đầu hồi, biết đang m�a đ�ng. Thung lũng �t chịu mặt trời. �m kh� n�i rừng pha trong sương đục, nh�a nh�a l�n trại. C�i lạnh rờn rợn nhiễm v�o người, l�u dần th�nh quen. Thi�n nhi�n tập cho con người biết chịu đựng. Về với thi�n nhi�n, thở c�ng cỏ c�y. Đi tr�n đất ẩm, nghe m�i rong r�u l� mục. L�m quen với muỗi đ�i vắt rừng. Coi thường độc tr�ng rắn r�t. Ngồi lặng h�ng giờ, ngắm những b�ng hoa dại �m thầm ngoi l�n từ kẽ đ�. Thưởng thức tinh hoa của đất trời, cũng l� một c�ch dưỡng sinh. Dựa lưng gốc đại thụ, thấu lẽ c�m n�n ng�n đời. Qu�n chuyện ng�y trước. Bỏ chuyện ng�y sau. Sống đời hoang d�. Th� rừng v� t�m kh�ng biết buồn. Ai nặng thất t�nh lục dục dễ bỏ m�nh giữa chốn th�m sơn.
Gi� lớn bốn phương về ngang thung lũng, bỗng trở m�nh cuộn th�nh cơn lốc. L� kh� bị hốt l�n cao, rồi tung ra như bướm tan đ�n bay tứ t�n. C�i n�ng m�a kh� gi� L�o kh�ng đủ ấm l�ng thung lũng. Gi� rừng kh�ng s�t đất. Gi� r� r�o tr�n đọt c�y. Dường xa x�i vọng lại. Dường gần gũi b�n m�nh. Đời đang khốn kh� m� nghe như c� tiếng th� thầm của một qu� nh� c�ch trở.
Ở đ�y, thường nghe gi� h�. C�c cụ gi� người Dao ngồi hơ tay b�n bếp lửa chiều đ�ng, kể bao nhi�u l� chuyện �m hồn nương theo gi� về đậu tr�n ngọn rừng tru thảm khốc. Thầy Mo thương những hồn c� quạnh, kh�ng nỡ đuổi đi. T�i, người mạt kh�ch phương xa. Nghe chuyện thần linh ma quỷ. Nghe truyền thuyết bao đời cha �ng của người T�y người Dao. Nghe b�i ca gắn b� n�i rừng. Thấm th�a muốn trở th�nh người của thượng du để đ�m đ�m nằm dưới m�i nh� s�n, thấy c�y cỏ mọc đầy trong giấc chi�m bao. T�i, kẻ tr� c�n, kh�ng thuộc hết b�i trường ca th�n bản, viết lại bằng mường tượng nhớ nhớ qu�n qu�n:
Bản ta c� bếp lửa bằng tuổi ng�i nh�
C� người gi� bằng c�y cổ thụ
Sống trăm năm b�ng đ� ngọn n�i
Sinh con đẻ c�i
Ở c�ng c�y rừng
Ở c�ng đ� n�i
Đất cho c�i ăn lấy từ nương rẫy
Nước cho c�i uống lấy từ khe xanh
Thịt da thấm sương m�B�n tay rắn rỏi
Vỡ đất cho hạt l�n mầm
Buổi s�ng giắt con dao quắm
V�c c�i x� gạc tr�n vai
Đội l� rẻ gai v�o rừng
Bắt con mang con mển
Bắt con nh�m con trăn
Chặt c�y giang c�y nứa c�y vầu
Đốn c�y trắc c�y lim c�y gụ
Đẽo gỗ l�m nh� s�n
Nu�i bếp lửa trừ t� x�m nhập
Bản ta c� thầy Mo
Quen với Thần Rừng Thần N�i
Biết vẽ b�a l�m ph�p
Gọi �m binh che chở bản l�ng
Kh�ng sợ con c� m�o tr� rủa
Kh�ng sợ con beo con b�o
Về r�nh trong đ�m tối
Thầy Mo gọi �ng Trời
Cho c�i mưa c�i nắng
Nu�i c�y lớn l�n nu�i người lớn l�n
Giống d�ng đời đời nối tiếp ...
T�i kh�ng hiểu ng�n ngữ người sắc tộc. Nhưng khi cụ gi� người Dao cất giọng, nghe như tiếng k�u trầm thống v� một nỗi g� như nỗi t�n phai đang đổ xuống n�i rừng lồng lộng ho�ng h�n. Kh�ng như ng�m thơ. Kh�ng như h�t t�n cổ nhạc. Kh�ng như tụng kinh. C�i �m l�n kh�ng bổng, xuống kh�ng trầm. � a l� lết k�o d�i �o nảo. Từa tựa như ph�p sư đọc thần ch�. Một sắc th�i ho�n to�n ri�ng biệt. Lẩn khuất trong lời ca, c� niềm bi tr�ng. Cụ gi� chuyển ngữ bằng lời Việt. T�i rắp t�m ghi nhớ trong l�ng, m� l�ng t�i th� nh�a dần theo ng�y th�ng nắng mưa.
Những chiều thu y�n ả, ngồi tr�n lưng chừng n�i nh�n xuống rừng. Kh�i nghi ng�t bốc l�n từ những m�i nh� s�n, n�p sau v�m c�y. Nhớ c�i bếp người thượng du. Đ�m lửa đầu ti�n thỉnh từ thầy Mo đem về gầy n�n bếp lửa. V� đ�m lửa ấy, �m ỉ ng�n ho�i theo thời gian, tồn tại c�ng với ng�i nh�. Người Dao tin rằng lửa xua đi b�ng tối ma quỷ. Muốn cho nh� cửa b�nh y�n, phải giữ lửa ho�i trong bếp. T�i cũng muốn tin như thế, tin bất cứ điều g� huyền b� để trong tuyệt vọng, tinh thần c�n c� thi�ng li�ng l�m chỗ dựa.
Những người kh�ch bất đắc dĩ từ phương Nam xa x�i đến đ�y, đều gh� m�a đ�ng Việt Bắc. M�a đ�ng. Ng�y chưa chiều, trời đ� chạng vạng từ l�c mới ra đi.
M�a đ�ng đến mưa ph�n gi� bấc
Suốt m�a đ�ng kh�ng thấy mặt trời
Ng�y x�m �m u. Mưa ph�n nhẹ như sương muối, thấm ẩm �o quần. Gi� bấc hiu hiu, thổi c�i buốt luồn v�o tận xương. V�c b� nứa d�i l� th� xuống n�i. Đất nh�o. Dốc trơn. Trượt t�. Vấp ng�. Tay ch�n x�y xước, chảy m�u m� kh�ng đau. Da thịt lạnh t� mất cảm gi�c.
Đường đi kh�Kh�ng kh� v� ngăn s�ng c�ch n�i
M� kh� v� l�ng người ngại n�i e s�ng
C� thật vậy kh�ng? C�u n�i của Nguyễn B� Học một thời lấy l�m kim chỉ nam, d� h�m chỉ nghĩa b�ng, giờ đ�y, bỗng thấy s�o rỗng. Những ai đang tr�n dốc đời khổ sở mới biết được c�y thập tự gi� tr�n vai Ch�a Gi�-Su nặng dường n�o. C� v�o địa ngục mới cảm th�ng kẻ chịu cảnh A Tỳ. Ngồi một chỗ l� thuyết su�ng, n�i những c�u triết l� để đời dễ hơn l� đối mặt với thực tại gian tru�n. Những h�nh nh�n tiều tụy r�ch rưới, vượt qua được một m�a đ�ng l� đi th�m một chặng đường v� vọng. Sự v� vọng giết người. C�ng lấn s�u v�o con đường v� vọng, c�ng gần sự chết. Chết đủ mọi c�ch. Đ�i l�m suy dinh dưỡng, th�n x�c kh�ng c�n sức đề kh�ng với bệnh tật. Thậm ch� cảm xo�ng cũng chết. Chung quy, cũng v� kh�ng thấy được �nh s�ng ph�a cuối con đường v� vọng. T�i c� người bạn c�ng cảnh ngộ, khi đi ti�u thấy ph�n c� lẩn ch�t đ�m, ứa nước mắt. Tao tới số rồi. Nếu m�y c�n c� ng�y về, cho vợ con tao biết ng�y c�ng giỗ. Anh bị kiết lỵ. Bị kiết lỵ coi như Ngọc Ho�ng giũ sổ. Tất cả thuốc men đ� bị tịch thu từ l�c mới đặt ch�n ra đất Bắc. Ở đ�y, rau sam đ�m dập, vắt lấy nước uống được coi l� thuốc trị bệnh kiết lỵ. Ban đầu, anh c�n đi ra nh� cầu. Ng�y thứ hai, t�i đ�o c�i hố nhỏ ngo�i v�ch l�n cho anh ngồi đ�. T�i phải đi rừng. Kh�ng ai săn s�c, anh b� ra hố giữa c�i lạnh m�a đ�ng dao cắt. Sau, anh nằm lu�n trong l�n sạp. Ỉa ra m�u. Kh�ng cần mặc quần nữa. Một kẻ c� quyền từ tr�n khung xuống, đứng nh�n anh. Mặt lạnh. Kh�ng biểu hiện căm th� hay thương x�t. Kh�ng ai c� thể đo�n được trong c�i đầu ấy đang nghĩ g�. Hỏi c� cần g� kh�ng? Bạn t�i thều th�o, xin một cục đường v� g�i m� ăn liền. C�u trả lời dứt kho�t. Đường, c� ngay. M� xứ n�y kh�ng đ�o đ�u ra được. Y�u cầu đ� thỏa m�n một nửa như �n huệ cuối c�ng. T�i đưa bạn về đất, an nghỉ dưới ch�n đồi. Nước mắt t�i chảy ngược, kh�ng c� giọt n�o nhỏ xuống cho anh.
Thời mạt vận quỷ thần quay mặt
Nghiến chặc răng k�nh với tai ương
Người bỏ cuộc đi về với đất
Chiếu b� th�y nằm lại rẫy nương
Bốn m�a đều c� người đi kh�ng trở lại. Nhưng m�a đ�ng khắc nghiệt l� thời điểm dễ nhất để vĩnh biệt thế gian. Tử Thần l�ng v�ng đ�u đ�y, l�m sao l�nh mặt? T�i nhớ lo�ng tho�ng trong Thiền Luận: �Tất cả đều l� phương tiện tu h�nh�. Trước nghịch cảnh, t�i �p dụng ngay c�u n�y để h�a giải mọi thương đau, biến nhọc nhằn th�nh phương tiện. B�ng Uẩn xem bửa củi g�nh nước l� thần th�ng diệu dụng. Sao t�i kh�ng xem đốn c�y cuốc đất l� một c�ch tập dưỡng sinh? V� t�i đ� đi qua m�a đ�ng, đi qua nhiều m�a đ�ng r�t mướt bằng sự thư th�i ri�ng t�i. Một kẻ c� quyền sau nhiều ng�y nhận x�t, đ� ph� b�nh c�ch l�m việc của t�i: �Giơ cuốc l�n, c� ỉa. Hạ cuốc xuống, mối x�ng�. C�u n�i l�m t�i sửng sốt. Diễn tả động t�c chậm, kh�ng c� c�i chậm n�o bằng. Từ từ giơ cuốc l�n, chậm như ngừng lại. Thời gian l�u đủ để con c� đậu tr�n c�i cuốc v� ỉa. Hạ xuống cũng chậm, đến nỗi trước khi nhấc cuốc l�n th� mối đ� x�ng th�nh tổ. Một lối diễn tả độc đ�o. Rất b�nh d�n m� cũng rất tuyệt vời. T�i m�i lấy l�m l� th� v� c�u n�i ngộ nghĩnh, qu�n c�i hậu quả tai hại sau khi bị ph� b�nh. Cứ thế, th�n bị kềm chế m� � th� phất phơ như chuyện đ�a. Tưởng như hồn v� x�c chẳng d�nh dấp g� nhau.
Nhiều đ�m. T�i nghe tiếng chắc lưỡi của những người chung quanh. Những con Thạch S�ng kh�ng ngủ, nằm trằn trọc nuối tiếc ho�i một thời quyền uy son v�ng đ� mất. C�nh cửa qu� khứ đ� kh�p lại. Nhưng c�i dư �m vi vu c�n đủ sức n�m bao người qua cửa tử. Nuối tiếc v� thống hận l� chất cường toan b�o m�n t�m phế. Người xưa uất kh� m� tr�o m�u họng. Đời nay, kh�ng thấy c� ai. L�c đ�c c� dăm anh h�ng sĩ kh� th� đ� cầm s�ng tự bắn v�o đầu, chết hết rồi. Kể chi những kẻ bợ đ�t m� n�n danh phận. Ngồi tr�n đầu thi�n hạ m� chăn d�n. Nằm tr�n bụng đ�n b� m� xua qu�n v�o trận mạc. Gặp thế biến, ph�ng nước đại th�o th�n nhanh hơn ngựa chạy trường đua. Bao giờ thấy những phường cẩu trệ bất nh�n chiếm giữ những ng�i vị trọng yếu quốc gia l� điềm b�o trước một chế độ suy t�n. Đ� l� quy luật của mỗi lần lịch sử sắp sang trang. V� c�i hậu quả tất yếu của n� một số người sẽ bị x� xuống hầm tai họa. Tr�ch ai th� chuyện cũng đ� rồi. Chắc lưỡi l� bu�ng th�m một dấu chấm than (!), tượng h�nh cho giọt nước mắt rớt xuống đời m�nh. Đời m�nh vốn đ� ướt đẫm từ khi lầm lỡ đem th�n giao cho kẻ �c. Th�i th� lo �bảo tinh, dưỡng kh� tồn thần�, giữ c�i bổn mạng được ng�y n�o hay ng�y ấy. Sầu bi l� tự nghiến đứt sợi d�y đang treo m�nh tr�n vực thẳm.
Nếu kh�ng mặc cảm lưu đ�y th� sống với n�i rừng l� một kỳ th�. Người T�y người Dao sinh ra, lớn l�n ở đ�y. Một nơi m� �nh s�ng văn minh chưa hề chiếu rọi. Trong nh� họ, ngo�i những c�i cuốc con dao c�i r�u l�m bằng kim kh� tất cả những vật dụng c�n lại đều bằng gỗ hoặc đất nung: ống bương đựng nước, nồi đất nấu cơm�
Những ng�i nh� s�n thường được dựng gần nguồn nước. Tr�n thế n�i cao, m�y ngấm hơi nước v�o đất, chảy ra từ trong khe đ�. Người ta d�ng c�y bương, đục bỏ những c�i mắc l�m m�ng dẫn nước. Nhiều c�y bương nối nhau th�nh c�i m�ng d�i, đưa nước về tận ch�n nh� s�n. Nguồn nước v� tận ấy, chảy ho�i kh�ng dứt. Người thượng du lợi dụng nguồn nước thi�n nhi�n để l�m cối nước gi� gạo theo nguy�n tắc đ�nh đu, đ�n bẫy. Buổi s�ng, trước khi �giắt con dao quắm, v�c c�i x� gạc� l�n rừng, họ cho một lượng th�c vừa đủ ăn trong ng�y v�o cối. Cứ v�i ph�t, c�i ch�y gi� xuống một lần đều đặn. Chiều về, họ tr�t th�c ra nia, s�ng s�y lấy gạo nấu cơm. V� tr�n n�c nh� s�n, kh�i chiều nghi ng�t bốc l�n. Đời sống đơn giản, �m đềm biết bao. T�i mơ ước một đời sống như thế, kh�ng xuống t�c đi tu m� l�ng cũng tịnh y�n tho�t tục.
Những năm th�ng l�m người kh�ch bất đắc dĩ của miền thượng du, c� một dạo t�i được chỉ định chăn b�. Hai người chăn đ�n b� bốn mươi con. Một trong hai người ấy, chết v� bệnh sốt rừng. T�i l� người được điền v�o khoảng trống. Kh�ng phải ngẫu nhi�n. T�i vốn c� bệnh bao tử, lại kh�ng được điều trị bằng thuốc men. Ở đ�y, bất cứ bệnh g� cũng được điều trị bằng một phương ph�p rất ư l� qu�i đản. Lao động trị liệu, như chặt c�y, đốn củi, v�c nứa, cuốc đất, trồng khoai v.v� Trong t�nh huống ấy, t�i lu�n lu�n tạo cho m�nh bộ mặt nhăn nh� trường kỳ để mỗi lần, kẻ c� quyền nh�n thấy t�i như thấy một hiện tượng kh� chịu. Họ chỉ muốn đẩy t�i đi cho khuất mắt. Nhưng t�i cứ hiện diện, cứ �o uột sống ho�i. Cuối c�ng, họ cũng t�m được c�ch để �t phải nh�n mặt t�i. Đ� l� l� do t�i được chỉ định chăn b�. S�ng ra trại, m�i đến chiều mới v�c mặt trở về. Y�n th�n.
Buổi s�ng, mở cửa chuồng. Con b� b� đầu đ�n sẽ ra đầu ti�n, tự động đi theo người dẫn đường. Đ�n b� c�n lại, lần lượt k�o theo sau. V� một người đi sau c�ng, cầm roi đ�t v�o đ�t những con đi chậm, hoặc đưa mỏ ngấm ngh� cỏ l� dọc đường. Đến một khoảng đất trống n�o đ� người dẫn đường dừng lại. Đ�n b� sẽ ph�n t�n đi ăn chung quanh, tr�n những n�i đồi b�t ng�t m�u xanh. Trưa trời đứng b�ng, t�i che tay l�n miệng l�m loa, gọi: �B�ơi� B� ơi��. �m thanh vang vọng n�i rừng. Đ�n b� lục tục về điểm tập trung, nằm nhơi cỏ. L�c trời xế b�ng, t�i đ� đ�t con b� đầu đ�n đứng dậy, n�i lớn: �B� đi� ăn...� Đ�n b� lại ph�n t�n. Buổi chiều, t�i che tay l�m loa lần nữa, gọi: �B� về� B� về�� Tại điểm tập trung, sau khi đếm đủ số b� con b� đầu đ�n lại theo người dẫn đường về chuồng trại.
B� rất hiền v� kh�n, c� thể hiểu được một số tiếng người thường d�ng với n�. Những con b� chửa, nếu sinh con ngo�i rừng, b� con đi chưa vững, khi nghe tiếng gọi: �B� về��, b� mẹ sẽ giấu con trong l�m bụi để trở lại điểm tập trung. Nhưng n� sẽ lẩn quẩn kh�ng chịu về. Người chăn kh�ng biết n� mới sinh con n�n đ�nh đuổi, bắt phải về. B� con ở lại, im lặng một m�nh suốt đ�m trong rừng. S�ng ra, vừa mở cửa chuồng, b� mẹ chạy trước, qua mặt người dẫn đường, đến chỗ cũ đ�n con. Gần tới nơi, b� mẹ li�n tiếp k�u ọ� ọ� ọ� V� b� con đang trốn trong l�m, lảo đảo đi ra. N� mừng rỡ, quyến luyến, l�m nũng cọ dựa v�o mẹ. B� mẹ �u yếm bằng c�ch liếm khắp m�nh b� con. Nghĩ đến sự v� t�nh l�m chia c�ch mẹ con suốt đ�m qua, t�i vỗ nhẹ l�n đầu b� mẹ, vuốt ve b� con như một c�ch tỏ l�ng cảm th�ng, �n hận.
T�i nhớ trước đ�y, cũng đ� c� lần chứng kiến một cảnh n�o l�ng. Ngo�i bốn mươi con b� trại c� nu�i ba con tr�u: hai con tr�u gi� v� một con ngh�. Một ng�y gần Tết, người ta l�a tr�u cha v� con ngh� đi ăn. Ri�ng tr�u mẹ bị l�a v�o trại, giao cho nh� bếp l�m thịt. Chiều về kh�ng thấy mẹ, con ngh� đứng rống thảm thiết. S�ng h�m sau, vừa được mở cửa chuồng, hai con tr�u chạy xăm xăm v�o trại, đến trước nh� bếp. Tr�u cha đứng ng�c mỏ l�n trời, hả họng như k�u một tiếng v� thanh d�i x� ruột. Con ngh� c�i gầm xuống, đi chung quanh nh� bếp, k�u � ọ� � ọ� gọi mẹ v� ngửi đất. C�i hơi hướm của mẹ n� c�n phảng phất đ�u đ�y, sau khi bị phanh th�y xẻ thịt. Cuối c�ng, một điều hết sức đau l�ng, tr�u cha v� con ngh� đứng ngơ ngẩn nh�n nhau chảy nước mắt. Trời ơi, lo�i vật m� biết chảy nước mắt th� lo�i người cầm l�ng sao đang! Li�n tiếp cả mười ng�y sau đ� buổi s�ng n�o trước khi đi ăn, tr�u cha cũng dẫn con ngh� đến trước nh� bếp đứng kh�c. Cảnh tượng ấy, kh�ng bao giờ t�i qu�n. Kh�ng bao giờ qu�n.
C� lẽ, những ng�y đi chăn b� l� thời gian nh�n du thoải m�i nhất của đời t�i. Lang thang giữa n�i rừng. Đứng tr�n cao, ngắm m�y đ�n l�n từ những lũng s�u, lướt thướt k�o qua ch�n n�i. Trong ph�t chốc, t�i bỗng thấy m�nh như kẻ tu ti�n l�nh đời, t�m thuốc trường sinh trong hoa ng�n cỏ nội. T�i cũng thường ngang qua nương rẫy. Gh� lại ngồi chơi với cụ gi� người Dao. Cụ dạy t�i h�t thuốc l�o m� kh�ng cần c�i điếu c�y. Bằng c�ch miệng ngậm nước, quấn thuốc trong chiếc l� ch�m lửa, r�t một hơi d�i, �m kh�i v� nhổ nước ra. T�i tập nhiều lần, nhưng kh�ng l�m được. Cụ kể t�i nghe về phong tục tập qu�n người d�n th�n bản. Kể t�i nghe về đời cụ. Một điều l�m t�i ngạc nhi�n, cụ chưa bao giờ đi đ�u xa qu� một ng�y đường. T�i ước lượng khoảng c�ch ấy, kh�ng hơn năm mươi c�y số. Cụ hỏi t�i từ đ�u đến đ�y, v� tại sao t�i n�i được tiếng Việt? Qua c�u hỏi, t�i biết trong th�m t�m cụ, miền Nam l� một nước kh�c. Cụ c� vẻ buồn khi nhắc đến những người con trai của n�i rừng, bỏ th�n bản đi l�m giải ph�ng miền Nam. Phần đ�ng đi biệt kh�ng về. Một số rất �t trở về, kể chuyện S�i G�n c� c�i nh� lầu cao bảy tầng v� th�nh vua rất tr�ng lệ. Cụ kh�ng tin con người c� thể cất được c�i nh� bảy tầng. Nhưng tin rằng, nếu vua S�i G�n kh�ng chịu đầu h�ng th� qu�n C�ch Mạng sẽ bắn n�t th�nh vua. Nh�n chuyện cụ gi� t�i nhớ tr�n chuyến xe lửa chở t� l�n Y�n B�i. Một người bộ đội hỏi t�i, thằng Pho c� đi học tập chuyến n�y kh�ng? T�i hỏi lại, thằng Pho n�o? Thằng Pho (Ford), tổng thống Mỹ đấy. T�i đ�p gọn, n� đang ở b�n Mỹ. Anh ta tiếc rẻ, thế � N� cũng chạy tho�t? Uổng thật! D�n tr� như thế, m� người ta tuy�n truyền rằng �nh s�ng văn minh đ�n điện đ� soi rọi khắp c�c v�ng n�ng th�n, rừng n�i.
T�m hồn người thượng du mộc mạc như đời sống của họ. S�ng sớm, rời m�i nh� s�n, họ l�n rẫy hoặc đi săn bẫy th� rừng. Bước ch�n kh�ng c� tiếng động. �m thầm hoang d�. Thỉnh thoảng, nghe tiếng đốn c�y vọng lại. C�i �m thanh kh� khốc lẻ loi như từ thinh kh�ng rớt xuống n�i rừng u tịch. Buổi tối, những người trẻ đi ngủ rất sớm. Người gi� ngồi trầm ng�m trong �nh s�ng chập chờn của ngọn đ�n dầu chai. Đời họ, kh�ng c� g� vui, cũng chẳng c� g� buồn. Thời gian lặng lẽ tr�i qua, họ tưởng như thi�n nhi�n mu�n đời vẫn thế. L�m sao họ nh�n thấy được sự biến đổi chậm chạp của n�i rừng, khi cuộc đời qu� ngắn.
Mấy mươi năm về trước, c� một số người miền xu�i, đi l�nh T�y, bị đ�y l�n đ�y. B�y giờ, họ đ� gi� lắm. V� con ch�u họ cũng đ� trở th�nh người của thượng du, nhưng họ kh�ng ở nh� s�n. C�i s�n trước nh� kh�ng mọc cỏ. Chung quanh c� trồng v�i loại c�y ăn tr�i. Ở m�i một nơi n�o rồi cũng nhận nơi đ� l�m qu� hương. Nếu đời cha kh�ng nhận, đời con cũng nhận. Thi�n địa v� nh�n. N�i rừng kh�ng v� một ai hết. Trời đất lặng thinh. Bốn m�a vẫn lu�n chuyển nắng mưa. Hoa l� tr�n ng�n vẫn xanh thắm. Kh�ng v� mặc cảm đọa đ�y m� con người gh�t cả thi�n nhi�n.
Một ng�y mưa dầm, t�i được lệnh chuyển trại. Thời thế đ� đến hồi gay cấn. Qu�n của hai b�n đ� d�n ra, đối mặt tr�n bi�n giới. Rồi đ�y, n�i rừng lại ầm vang tiếng s�ng. Người d�n hiền ho� v� tội của th�n bản l� nạn nh�n trực tiếp hứng chịu những sấm s�t do ch�nh con người g�y ra.
Con đường ph�a trước t�i, kh�ng biết sẽ về đ�u. Tr� t�i bỗng hiện ra những dốc đ�o uốn kh�c sơn kh�. Những con suối m�a chảy xiết ng�y mưa. Những th�n bản im vắng trưa h�. T�i như nghe tiếng chim bắt-c�-tr�i-cột gọi buồn th� thiết. Nghe con �o-d� con nai đ�m đ�m �b�c� ngo�i đồi tranh hiu quạnh. Nh�n lại, l�n trại đ�u hiu. C�i sạp, nơi t�i nằm trống hoang lạnh lẽo. Mới đ�y m� cơ hồ đ�ng bụi. C�i ống bương đựng nước rửa mặt mỗi s�ng, nghi�ng đổ dưới s�n. C�i gi� phong lan, t�i đem về từ ngo�i rừng treo tr�n v�ch nứa, như cũng c� hồn biết rầu rĩ chia xa. H�ng r�o trại kh�ng c�n cần thiết nữa, bị ph� một khoảng để lấy lối đi tắt, cũng l�m t�i nao l�ng. Chẳng phải t�i đ� từng kh� chịu v� c�i h�ng r�o n�y, v� mong được ở ngo�i v�ng kiềm toả của n� hay sao? Rời khỏi nơi đ�y, một chốn đ� trở th�nh th�n quen, tất cả những g� bỏ lại đều l�m t�i thương nhớ. Ra đi, t�i ng� lại trong mưa, những d�y n�i Ho�ng Li�n Sơn m� m� đẹp như tranh v� h�ng vĩ biết bao.
Xin ch�o từ biệt những người c�ng chung cảnh ngộ, đ� đến đ�y v� vĩnh viễn nằm lại n�i rừng thượng du.

L�m Chương

Friday, May 23, 2008

Gió Ngược


Sơn Ca và mèo ngủ chung, mèo nằm trong lòng, gối đầu lên cánh tay nó như một đứa em cưng. Nó thường vuốt ve, nhiều lúc còn hôn lên cái mũi đỏ hồng của mèo nữa.
Ông Lâm nói: “Con không nên hôn mèo.”
“Why?” Nó hỏi.
Ông Lâm không thích lối hỏi cộc lốc theo kiểu người Mỹ. Ông dặn các con, ngoài thì giờ ở trường, về nhà phải nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt. Tập cái lễ độ của người Đông Phương, gọi dạ bảo vâng. Ông sợ con ông quên nguồn gốc giống nòi, và kể với nó về chuyện Lạc Long - Âu Cơ trăm trứng trăm con.
Nó hỏi lại: “Chuyện ấy có thật không?”
“Đã bảo rằng truyền thuyết thì đừng hỏi thật hay giả. Hỏi thế chẳng khác nào con móc họng ba.”
“Móc họng là gì vậy ba?”
“Là kê tủ đứng chận họng, không cho người ta nói.”
“Nhưng con hỏi để tìm hiểu.”
“Tìm hiểu thì phải biết lắng nghe, chứ không phải hỏi có tính cách bắt bí.”
Trong gia đình, ông Lâm cảm thấy có điều gì không ổn đối với các con. Chẳng hạn, khi ông nhắc về một xứ sở xa xôi, có một nền văn hiến bốn ngàn năm đầy tự hào của ông. Nghe xong, đứa con gái lớn ngồi trầm ngâm. Tưởng nó đã thấm nhuần tư tưởng do ông truyền đạt, ông đặt câu hỏi để rà lại sự hiểu biết của nó.
“Con nghĩ thế nào?”
“Con nghĩ, Mỹ chỉ có hai trăm năm lập quốc, mà tiến bộ văn minh kinh khủng. Còn bốn ngàn năm văn hiến, sao quá èo uột.”
“So sánh thế là bất công với tổ tiên mình. Nhìn tới nhưng phải biết ngó lui, con ạ!”
Và ông nêu những sự kiện trong quá khứ dân tộc, để con ông ngó lui.
Nó nhận xét: “Cả một pho lịch sử thấm đầy máu và nước mắt.”
“Chỉ có thế thôi sao?”
“Thế thôi!”
“Con không thấy tiền nhân của mình rất anh hùng sao?”
Đứa con gái e dè hỏi lại: “Ba cho phép con nói thật không?”
“Nói đi. Thanh thật là đức tính đáng quý.”
“Anh hùng, nhưng hiếu chiến quá.”
“Tổ cha bây! Chưa chi đã phản lại giống nòi. Đạp cứt ngoại lai. Chống lại thằng ăn cướp, đánh đuổi ngoại xâm là ý chí quật cường mà gọi rằng hiếu chiến à?”
Thấy ông Lâm nổi sùng, đưa con gái không dám mở miệng. Nó đã có kinh nghiệm, khi ba nó trừng mắt lớn tiếng, nó nên im lặng cút đi nơi khác.
Cũng vì nguồn gốc dân tộc và bảo tồn văn hoá, đôi khi ông Lâm làm người khác phải ngỡ ngàng. Có lần, ông đến thăm người bạn, gặp lúc nhà đang đông khách.
Con của bạn và các bạn của nó, chào ông bằng cách đưa tay vẫy vẫy, miệng nói:”Hi! Hi!”
Ông Lâm khó chịu với kiểu chào có vẻ đồng đẵng này. Ông cho thế là trịch thượng.
Ông miễn cưỡng chào lại, và hỏi cho có chuyện để hỏi: “Các cháu còn đi học hay đã đi làm?”
Chúng cứ ngớ ra, không hiểu.
Vợ người bạn vội đỡ lời: “Tụi nó không biết tiếng Việt đâu. Tất cả đã ra trường, đã đi làm. Toàn là bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư cả đấy.”
Cách giới thiệu của bà, ông Lâm thấy có hàm ý hãnh diện khoe khoang.
Ông nói: “Tụi nó là những con dơi.”
“What’s koan giơi?” Chúng trố mắt nhìn nhau.
Có đứa thông dịch: “The bats.”
“Why? Why?”
Lại cũng kiểu hỏi cộc lốc.
Ông Lâm cười khinh khỉnh: “Con dơi nhập bầy với chim. Chim nói, mày không phải chim, mày có mỏ chuột lông mao, hãy về chơi với chuột. Dơi về nhập bầy với chuột. Chuột nói, mày không phải chuột, mày có cánh biết bay như chim, hãy về chơi với chim. Cuối cùng, dơi chẳng nhập được với loài nào. Các cháu cũng thế. Mỹ không nhận mũi tẹt da vàng là người đồng chủng. Quay về với Việt, thì không biết nói tiếng Việt, làm sao hội nhập?
Sau khi nghe thông dịch, chúng kêu lên: “Koan giơi. Koan giơi.” Và nhún vai cười hô hố.
Bà vợ ông chủ nhà hơi ngượng, vì ông Lâm chẳng những đã không tâng bốc vị nễ các sĩ các sư, lại còn giở giọng châm biếm mỉa mai một cách kỳ quặc. Ngày ấy trở đi, hai bên ít khi lui tới.
Đối với Sơn Ca, ông đã dặn rồi nhưng một lúc bất chợt nào đó, nó vẫn “why” với ông. Lần này, ông chỉ thoáng nhíu mày.
“Lông mèo vào phổi sẽ bị ho lao.”
“Cô giáo của con không dạy như thế.”
“Nhưng ngày ba còn nhỏ, bà nội của con đã dạy ba như thế.”
Con bé có vẻ suy nghĩ: “Ho lao là do vi trùng. Lông mèo đâu phải vi trùng. Sao bà nội dạy ba kỳ vậy cà?”
“Không kỳ cà gì cả. Hít lông mèo vào mũi, nếu không ho lao thì cũng bị hen suyển.”
“Con phải hỏi lại cô giáo.”
Sơn Ca coi cô giáo của nó là nhất. Trong gia đình, ông Lâm đã giảm uy tín từ ngày tiểu bang và nhà trường phát động chương trình kêu gọi mọi người bỏ hút thuốc. Cô giáo dạy rằng, hút thuốc có hại cho sức khoẻ, và làm ảnh hưởng luôn những người chung quanh. Về nhà, nó năn nĩ ông bỏ hút. Ông hứa, và bỏ được hai ngày. Sau đó, ông hút lại còn dữ hơn khi chưa bỏ. Nó mách với cô giáo về chuyện ông thất hứa. Cô khuyên hãy “kiên trì tranh đấu cho đến thắng lợi sau cùng: bãi bỏ hút thuốc.” Ở nhà, con bé có mẹ, và chị em nó đồng lòng sát cánh, đấu tranh không mệt mỏi. Bên ngoài, nó có cô giáo hậu thuẫn làm đồng minh, không bao giờ phản bội. Ông Lâm bị cô lập, đối nội đối ngoại đều thất thế. Nhưng ông hút đã mấy mươi năm rồi, không dễ gì một sớm một chiều, ai lung lay được cái nền tảng vững chắc của nicotine thấm nhuần trong máu, và thói quen phì phà khói thuốc. Cuộc chiến hút và chống hút còn đang dằn co chưa biết ngã ngũ ra sao.
Một hôm, con bé đi học về, nhảy cà tưng mừng rỡ: “Ba ơi. Ba ơi. Con được honeroll rồi.”
“Được honeroll thì tốt thôi. Con giỏi lắm.” Ông Lâm xoa đầu tán dương nó.
“Ba có hứa, nếu con học giỏi thì ba thưởng. Con đã nói trước phần thưởng gì, ba nhớ không?”
“Một con mèo.”
“Mai ba dẫn con ra Pet Shop mua mèo đi ba.”
“Pet Shop chỉ bán chó con.”
“Có cả mèo nữa. Con đã vào coi một lần rồi.”
Để lấy lại uy tín, hòng lèo lái các con ông đi vào con đường bảo tồn văn hoá dân tộc, ông Lâm giữ lời, và đưa Sơn Ca ra tiệm chó mèo. Nó chọn một con mèo con, lông trắng như cục tuyết, cái mũi hồng hồng. Có con mèo, nó không thích chơi với những con “sea monkey”, một loại sinh vật có nhiều chân như con rít, nhỏ như con lăn quăn bơi trong lọ nước. Sơn Ca nuôi “sea monkey” chẳng làm phiền gì ai. Nó đặt lọ nước lên bàn, soi thêm cái kính lúp, và chúi mũi vào ngắm nhìn những con vật li ti bơi qua bơi lại. Thế thôi. Nhưng, nuôi mèo thì phiền. Nhà thuê ở tầng cao, mèo không có nơi phóng uế bên ngoài. Thỉnh thoảng, nghe cái mùi thum thủm chua chua nhức óc. Ông Lâm rà mũi đánh hơi khắp các góc kẹt trong nhà, tìm cho ra nơi phát xuất. Chỉ vài thỏi cứt nhỏ bằng ngón tay út, nhưng sức công phá khứu giác thật dữ dội. Nước đái mèo cũng không dễ ngửi. Đó là mùi khai của nước đái trẻ con, có pha thêm chút giấm. Nếu không phát hiện sớm, để lâu bốc mùi nồng gắt còn hơn nước đái quỷ. Ông Lâm đề nghị trục xuất con mèo ra khỏi nhà. Đề nghị cũng là một trò chơi dân chủ. Sang tới xứ này rồi, chế độ quân chủ đã lỗi thời. Người cha không phải là một ông vua nhỏ có quyền áp đặt mọi thứ trong gia đình. Tất cả đều được hợp bàn để lấy biểu quyết chung, nhưng quyền quyết định tối hậu vẫn là ông. Vì muốn thu phục nhân tâm, nên ít khi ông Lâm dùng quyền phủ quyết. Một buổi tối, cả nhà ngồi lại thảo luận với nhau. Mười người mười ý. Cuối cùng, đi đến thoả thuận chung. Sơn Ca được tiếp tục nuôi con mèo, nhưng nó phải đảm trách công việc lau nhà. Mục đích chính là lau nước đái, và hốt cứt mèo.
Vì Sơn Ca sẽ hỏi lại cô giáo về tác hại của lông mèo nên ông Lâm điện thoại đến nhà cô giáo trước, kể chuyện Sơn Ca hôn mèo, và nhờ cô nói giúp là lông mèo làm ho lao hoặc hen suyển.
Cô giáo phản đối: “Tôi không thể nói điều trái y học.”
“Thế cô cũng tán đồng cho nó hôn mèo?”
“Không phải. Tôi chỉ nói không nên hôn mèo vì vấn đề vệ sinh.”
“Nếu đặt vấn đề vệ sinh thì mèo đâu phải con vật dơ bẩn?”
“Thưa ông, không nên đi quá xa mục đích yêu cầu của ông. Cứ hãy nhìn lên TV, người Mỹ họ ôm ẳm chó mèo trong lòng và hôn hít, đã có sao đâu? Ông không muốn thế, tôi sẽ khuyên Sơn Ca đừng hôn mèo. Đơn giản chỉ có thế.”
“Cô cũng nên cho nó biết thêm, rằng chó mèo có thể gây ra dị ứng về đường hô hấp như một số người dị ứng với phấn hoa thảo mộc.”
“Lại nữa! Điều này có lẽ ông phải nhờ một bác sĩ giải thích cho con ông. Tôi là một cô giáo, không có khả năng ôm đồm nhiều thứ.”
“Nhưng con tôi nó tin cô.”
“Chính vì thế mà tôi không thể nói những gì ngoài lãnh vực hiểu biết chuyên môn. Đối với trẻ em, một lần nói sai hoặc thất hứa, những lần sau nó không tin nữa.”


Sơn Ca đặt tên con mèo là Snowball. Nó réo Snowball cả ngày, nhưng con mèo cứ trơ ra như không phải gọi nó.
Ông Lâm nói: “Nó đã có tên rồi. Nó không thích ai gọi nó là Snowball.”
“Tên gì?”
“Meo.”
“Ai đặt cho nó vậy?”
“Má nó đặt từ khi mới sinh.”
“Meo. Tên xấu tệ.”
“Nhưng nó thích. Con thử gọi Meo đi.”
Sơn Ca giả giọng mèo kêu meo meo. Con mèo liền đến ngay.
“Còn tên của con, ai đặt vậy?”
“Má mày.”
“Tại sao đặt Sơn Ca?”
“Ở Việt Nam ngày trước, có cô ca sĩ tên Sơn Ca hát rất hay. Má con thích giọng hát của cô ấy, và lấy tên cô đặt cho con. Sơn Ca cũng là tên của một loài chim có tiếng hót líu lo vui tai lắm. Con có thích tên của con không?”
“Thích. Nhưng người Mỹ gọi con là Sơn Khê.”
“Họ gọi là gì, kệ họ. Con cứ giữ tên con. Ba rất ghét những mũi tẹt da vàng mà gọi là Mai Cồ, là Biu, là Bóp, là Hé Lìn, là Xí Nì ...”
“Người Mỹ gọi tên ba thế nào?”
“Lâm, nhưng họ phát âm thành Lem.”
“Lamb là con cừu nhỏ, hiền lành dễ thương lắm. Nhưng ba dữ quá à!”
Ông Lâm cười, trìu mến ôm đứa con gái nhỏ vào lòng. Ông hi vọng rằng với đứa con này, ông sẽ dạy nó theo ý của ông. Uốn măng từ lúc còn non. Dạy con từ thuở còn thơ... Mấy đứa con lớn, ông coi như sắp vuột ra khỏi tầm tay rồi.


Con Meo Snowball gợi nhớ về một quãng đời cũ có con Miêu Nữ, con nuôi của Biên Khuỳnh. Trong trại có hai Biên. Để phân biệt, Biên thuộc đội đi rừng kéo gỗ, anh em đặt là Biên Xe Be. Còn Biên tay cán vá của đội Xây Dựng là Biên Khuỳnh.
Miêu Nữ được Biên Khuỳnh đem về nuôi từ ngày còn tấm bé. Trưa, anh nằm nghỉ trên chiếc võng, Miêu Nữ nằm trên mình anh. Cũng có lúc, anh đặt Miêu Nữ một mình trên võng, ngồi một bên đưa qua đưa lại như người mẹ dỗ giấc con thơ. Tôm khô, lạp xưởng là loại thực phẩm cao cấp của tù, anh nhịn ăn, dành cho Miêu Nữ. Phải nhìn những lúc Biên Khuỳnh nằm nghiêng trên lán sạp, cầm từng con tôm khô đút cho Miêu Nữ ăn mới thấy hết cái tình của Biên Khuỳnh đối với Miêu Nữ. Cũng có khi anh vuốt ve Miêu Nữ mà đôi mắt buồn xa vắng như đang nhìn về một cõi đâu đâu. Anh em trong đội rất cảm thông giờ phút “sầu đứt ruột” ấy của Biên Khuỳnh.
Những năm tù cải tạo ngoài miền Bắc, Biên Khuỳnh không ai thăm nuôi. Lâu lâu, nhận được thư mẹ già, cũng chỉ những lời hỏi thăm và căn dặn yên tâm học tập tốt để sớm về đoàn tụ với gia đình. Nếu không viết như thế, khi qua tay kiểm duyệt, bức thư sẽ đi thẳng vào sọt rác. Đó là những câu phải viết theo “thủ tục hiện hành”. Nhưng bà còn phải đáp ứng cho Biên Khuỳnh biết gia đình vợ con ra sao chứ? Không, bức thư không cho anh biết thêm điều gì, ngoài hai câu trích dẫn trong truyện Kiều:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng (ND)
Xã hội nào mà không có những điều đau đớn lòng. Nhưng điều đau đớn lòng, mẹ anh trông thấy là điều gì? Biên Khuỳnh mù tịt!
Khi Biên Khuỳnh được chuyển về Long Khánh, ở trại Xuân Lộc. Theo lời cán bộ, đưa đợt tù này về Nam, tạo điều kiện thuận lợi tiếp tục cải tạo tốt. Nghe tin, mẹ anh từ Nha Trang, đáp tàu đi Long Khánh, lên xe đò đi Xuân Lộc, ngồi xe Lam vào Gia Rai, lội bộ thêm một khoảng đường giữa hai hàng cây so đủa dẫn tới nhà khách thăm nuôi. Lần đầu tiên sau bao năm đi tù, Biên Khuỳnh được thăm nuôi. Gặp nhau, hai mẹ con đều rớt nước mắt vì thấy tình trạng sa sút đến thảm hại của người thân. Không biết mẹ già đã nói những gì, Biên Khuỳnh buồn hiu, tịnh khẩu mấy ngày. Dần dần rồi anh em đội Xây Dựng cũng hiểu ra nỗi niềm của anh. Người đàn bà hết dạ yêu anh một thuở, tưởng “sông có cạn, núi có mòn, tình vẫn không thay đổi” đã đành đoạn cuốn gói đi theo người khác. Mà người khác lại đang thời hãnh tiến, thuộc phía đối nghịch cùng anh. Hai đứa con anh như cụm lục bình trôi theo mẹ, bềnh bồng vất vưởng, bữa đói bữa no. “Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, mẹ Biên Khùynh viết trong thư là thế.
Trong trại, không chỉ Biên Khuỳnh bị vợ bỏ. Nhiều người cũng ở vào trường hợp tương tự như anh, nhưng mỗi người hành sử mỗi khác. Ở tù là một bất hạnh. Gia đình vợ con tan nát là thêm một bất hạnh nữa. Nỗi đau khổ chồng chất quá lớn, đã xô con người vào đường cùng. Có người cắt động mạch, hoặc thắt cổ tự vận. Có người lao đầu vào lò lửa đang cháy rực, tự nướng mình. Có người nhảy vô chảo nước sôi, tự luộc mình. Anh em bằng hữu sợ một lúc quẩn trí nào đó, Biên Khuỳnh liều mạng. Nhưng anh không làm thế.
Anh nói: “Đàn bà trắc nết mê trai, bạc tình là chuyện thường. Chỉ tội cho con cái khổ lụy vì người mẹ hư đốn.”
Để khuây khoả nỗi buồn, Biên Khuỳnh xin một con mèo nhỏ đem về nuôi. Ngoài những giờ đi lao động, anh và mèo quấn quít bên nhau. Tình thương hai đứa con trôi giạt, anh phả hết vào con mèo. Anh em đội Xây Dựng đặt tên cho mèo là Miêu Nữ, con nuôi của Biên Khuỳnh.
Miêu Nữ dễ thương hết sức. Hai tròng mắt xanh lục màu ve chai. Bộ lông trắng mịn, vá thêm mảng lông màu vàng nhạt, như một thiếu nữ quàng tấm khăn san trên cổ. Nó bước đi nhẹ nhàng, ăn uống nhỏ nhẻ. Lật ngửa nó ra, lấy ngón tay cù vào nách. Nó uốn éo thân hình, quơ bốn chân bấu lấy bàn tay, kề miệng ngoạm nhẹ ngón tay rồi nhả ra ngay. Khi đùa, Miêu Nữ không bao giờ cắn mạnh, và cũng không vươn móng vuốt. Biên Khuỳnh bày trò chơi, cột miếng vải vào một đầu sợi dây, nhữ cho Miêu Nữ nhào tới chụp. Anh liền kéo miếng vải đi nơi khác, và Miêu Nữ chụp hụt. Anh nói, để tập cho nó lanh lẹ khi bắt chuột. Anh lại cầm sợi dây, thòng miếng vải xuống giật giật như câu ếch, Miêu Nữ phóng lên chụp. Đôi lúc phóng quá đà, Miêu Nữ té ngửa. Anh nói, để tập cho nó nhảy cao.
Thời gian rồi cũng làm cho nỗi đau buồn của Biên Khuỳnh nguôi ngoai dần, vết thương thành sẹo. Miêu nữ lớn lên trong tình thương của anh. Đến kỳ Miêu Nữ “biết yêu”, anh em đội Xây Dựng có rất nhiều đề tài để nói.
Ở tù không biết ngày nào ra, hơi đâu mà buồn hoài. Yếu tố tinh thần rất quan trọng. Nếu cảm thấy ngột ngạt là nhà tù, thoải mái là nhà mình. Có khi mình đóng cửa nằm nhà cả ngày, đã có sao đâu. Nhưng nếu ở trong phòng giam, mình cảm thấy khó chịu. Tất cả đều do cảm ứng tinh thần mà ra. Hãy bỏ qua hết mọi thứ phiền não để mà sống, và cũng đừng tự hỏi sống như thế có ý nghĩa gì không. Ở tù, hãy lo mạng sống trước, còn sống thế nào cho ý nghĩa, dành cho những người đang được tự do. Cứ coi như đây là nhà của mình thì thời gian năm năm, mười năm sẽ qua vèo như giấc ngủ trưa. Chàng Moritz trong “Giờ Thứ Hai Mươi Lăm” sống qua được hai mươi năm trong tù, nhờ cái đầu anh ta ít suy nghĩ. Triết gia Tristan tự tử sau một thời gian ngắn bị giam cầm, chính vì cái đầu nhiều khúc mắc của anh đã hại anh. Có người lý luận như thế, dù chỉ để an ủi mình. Nhưng nhiều đêm nằm trăn trở trên sạp gỗ, bị lũ rệp tấn công không ngủ được, nghĩ lại cái triết lý sống trong tù ấy, không phải là không đúng. Và Miêu Nữ là một yếu tố quan trọng, làm anh em đội Xây Dựng quên thời gian dài khủng khiếp của trại tù.
Thời kỳ cơ thể Miêu Nữ bắt đầu rạo rực. Một dấu mốc quan trọng đầu đời. Nhiều anh ý kiến phải tuyển cho Miêu Nữ một tấm chồng thật xứng đôi vừa lứa. Già hết xí quách, không được! Đen đủi xấu xí, không được! Ốm o gầy mòn hoặc mập phệ, cũng không được! Tiêu chuẩn làm mẫu được đưa ra: mạnh khoẻ, trẻ trung, và nhất là bộ áo lông khoác bên ngoài phải đẹp là yếu tố hàng đầu. Con đực xấu hình, sẽ di truyền một đàn con xấu mã.
Cả trại chỉ có Miêu Nữ là con mèo duy nhất, nhưng khi tới tuổi động tình, không biết loài vật thông tin với nhau bằng cách nào, liền có ngay một chàng mèo mướp xa lạ, từ đâu đến ve vãn làm quen.
Một anh ra vẻ hiểu biết: “Loài vật rượn đực có mùa. Trong thời kỳ rượn đực, âm hộ của con cái nở lớn, và tiết ra một mùi rất đặc biệt. Đó là dấu hiệu báo cho con đực.”
Anh khác thắc mắc: “Nhưng con Miêu Nữ nhà mình, âm hộ vẫn nhỏ xíu?”
“Nhỏ là vì nó còn trinh, cái hoa của nó đã ửng đỏ lên rồi đấy.”
“Còn cái mùi, có ai ngửi được mùi gì đặc biệt không?”
“Chỉ con vật nó đánh hơi được mùi của nhau thôi. Con người làm sao ngửi được mùi của con vật?”
Có anh lái vấn đề sang hướng khác: “Thế, đàn bà khi động tình, âm hộ có tiết ra mùi gì không?”
Nhiều tiếng cười hô hố sau câu hỏi.
Một anh trả lời: “Đàn bà, bốn mùa thời tiết nắng mưa, bất kể ngày đêm sáng tối, lúc nào cũng có thể làm tình được. Cần chi phải tiết ra mùi này mùi nọ!”
Biên Khuỳnh lên tiếng: “Tôi xin các ông. Đừng nhắc đến cái loài động vật xương sống thẳng đứng, nhưng không có tình cảm ấy nữa.”
“Loài gì xương sống thẳng đứng, không tình cảm nhỉ?”
“Anh ta ám chỉ đàn bà đấy. Cay cú con vợ nhà phản trắc, rồi ghét lây những người đàn bà khác. Thế là bất công!”
“Thôi, bấy nhiêu đủ rồi. Đừng xé vết thương rách ra thêm.”
Sau lời can thiệp, mọi người trở lại đề tài mèo.
“Các anh đồng ý chọn chàng Mướp cho Miêu Nữ không?”
“Mướp là ứng phu duy nhất, không chọn nó thì chọn ai?”
Thế là chàng Mướp đương nhiên trúng tuyển. Nhiều người nói, mèo chỉ giao hợp ban đêm, chưa ai thấy được cái pha cụp lạc ấy bao giờ. Và kế hoạch chương trình được đề ra cho cái đêm động phòng của Miêu Nữ, làm sao để mọi người có thể quan sát rõ ràng.
Có người lên tiếng thẳng thừng: “Đừng tránh né sự thật. Cứ nói ngay là thị dâm đi.”
Buổi tối. Trong phòng giam, Miêu Nữ bị cột dưới sàn bằng sợi dây dài. Mục đích dụ chàng Mướp vào phòng. Miêu Nữ kêu meo meo, có vẻ xốn xang. Mướp lượn vòng bên ngoài, cũng kêu meo meo. Kêu hoài không thấy tình nhân, Mướp chồm lên cửa sổ nhìn vào. Cuối cùng, do tiếng gọi tình yêu thôi thúc, chàng phóng qua cửa sổ, vào với nàng.
Mọi người tránh gây tiếng động, sợ làm Mướp mất bình tỉnh. Một số nằm trên sạp, thòng đầu nhìn xuống sàn. Một số lót tấm nylon, nằm dưới nền đất nhìn cho rõ.
Lúc đầu, Mướp ta chưa dám xáp gần. Chàng lượn quanh Miêu Nữ, nhìn tới nhìn lui, quan sát động tịnh. Mướp lượn tới đâu, Miêu Nữ quay nhìn theo đó, chứng tỏ nàng đang thèm muốn lắm. Thấy tình hình có vẻ khả quan, Mướp khép vòng lượn, xáp lại gần, cọ mình vào Miêu Nữ. Nàng ngước đầu, vươn cổ đợi chờ. Chàng âu yếm vuốt ve cần cổ êm mướt như nhung của nàng bằng cái đầu của mình. Miêu Nữ đê mê làm cái đuôi xù lông, dựng đứng lên. Mướp tưởng đã có thể tiến thêm một bước nữa, bèn đặt chân trước lên lưng Miêu Nữ, đè xuống. Bất ngờ nàng kêu “méo”, và cào vào mặt chàng. Mướp giật mình phóng ra xa.
Có người la lên: “Gái còn trinh mà bị tấn công sỗ sàng quá, nó mắc cỡ. Phải từ từ!”
“Mắc cỡ mẹ gì! Nàng muốn treo giá ngọc đấy. Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.”
“Suỵt! Suỵt! Làm ơn câm bớt mấy cái mồm giùm tôi đi!”
Sau một phút ngỡ ngàng, Mướp lấy lại bình tĩnh, đến gần ve vãn nữa, làm lại cái màn mơn trớn từ đầu. Vài lần như thế, và lần nào khi tới giai đoạn đè Miêu Nữ xuống, Mướp cũng bị nàng cào cho rách mặt. Trên tình trường, Mướp đã từng nhiều lần xông trận nên có thừa bản lảnh và kinh nghiệm. Gặp trường hợp quá khó, phải dùng biệp pháp mạnh: cưỡng dâm. Mướp cắn cổ, đè Miêu Nữ. Nàng la lớn, vùng vẫy dữ dội. Kẻ bạo dâm chưa làm ăn gì được, đã bị nàng cào cắn tơi bời. Chàng nhảy ra, đứng trơ tráo nhìn nàng và thở. Nàng gồng mình, xù lông, nhe nanh trong tư thế sẵn sàng xé xác con quỷ râu xanh.
“Hahaha. Miêu Nữ nhà mình gìn giữ tiết trinh quyết liệt hơn Kiều Nữ của Nguyễn Du.”
Biết gặp phải chằn tinh nữ quái, chàng thất vọng quay mình phóng qua cửa sổ, ra ngoài.
Mất dịp thị dâm, có anh chưởi thề: “Đù mạ, ép duyên cũng không xong.”
“Thế mới biết, trên đời này làm gì có chuyện hiếp dâm. Nếu nó không chịu, cứ giãy giụa hoài, đố thằng nào đút vô cho lọt!” Một anh nói như vừa phát giác ra chân lý.
Mọi người đi ngủ để lấy sức ngày mai lao động. Biên Khuỳnh tháo dây, thả Miêu Nữ.
Không biết Miêu Nữ lẻn ra hồi nào. Giữa khuya, nghe tiếng mèo tru tréo kêu la đau đớn ngoài hàng rào trại.
Vài anh choàng dậy.
“Xong rồi! Miêu Nữ đã bị phá trinh.”
“Mất trinh làm gì mà la dữ dội thế. Đúng là con Miêu Nữ nhà mình bị bệnh khổ dâm.”


Miêu Nữ có mang. Chàng Mướp quất ngựa truy phong biến dạng. Trên cõi đời nhiều gian trá này, tên Sở Khanh nào cũng giống nhau. Nói năng đường mật. Chìu chuộng vuốt ve. Thề thốt đủ điều. Không có em, anh sống không còn ý nghĩa, cho nên anh có thủ sẵn một chai thuốc rầy. Nếu em lắc đầu từ chối, anh sẽ nốc cạn chai thuốc này, tự tử trước mặt em. Nghe những lời chí tình, nàng xiêu lòng để cho chàng tháo sợi dây lưng quần. Thế là xong! Nhưng khi nàng bắt đầu đặt vấn đề trách nhiệm là lúc chàng tìm đường rút lui. Chàng Mướp thuộc loại cao thủ trong hàng cao thủ Sở Khanh. Cặp bồ với Miêu Nữ một thời gian rất ngắn, Mướp trốn đi không lời từ giả, để lại cho Miêu Nữ một bầu tâm sự.
Biên Khuỳnh trách nhiệm săn sóc “bà bầu”, theo dõi thai nhi. Anh em đội Xây Dựng tiếp tay trong vấn đề thực phẩm, có được món ngon cũng chia phần cho Miêu Nữ bồi dưỡng.
Một hôm, Biên Khuỳnh sờ bụng Miêu Nữ, kêu lên: “Tôi nghe nó máy rồi!”
Anh em bu lại, người nào cũng muốn thăm thai Miêu Nữ. Đặt bàn tay lên cái bụng bầu, vuốt nhẹ, để yên, nghe ngóng.
“A ha... Nó chòi cộm cả tay tôi.”
“Nó đạp dữ quá!”
“Ấy! Đừng bóp mạnh, coi chừng sẩy thai.”
“Tôi nghe lúc nhúc cả một bụng. Lứa này dễ chừng cũng được mười con.”
“Làm gì có. Mèo chứ đâu phải heo mà đẻ nhiều thế?”
“Anh nghĩ bao nhiêu?”
“Từ ba đến năm là cùng.”
“Theo kinh nghiệm, tôi biết mèo cũng như cọp, chỉ đẻ tối đa hai con.”
“Bố khỉ! Chả có thằng nào kinh nghiệm hết. Chỉ nói phét!”
“Xin can các ngài. Miêu Nữ mang thai mệt mỏi, nó cần nghỉ ngơi. Các ngài cứ rờ mò, nắn bóp hoài. Sẩy thai mất!”
Đội Xây Dựng trông chờ ngày Miêu Nữ lâm bồn. Chưa chi mà nhiều anh đã đặt cọc trước. Anh nào cũng muốn có một con mèo để nuôi.
Biên Khuỳnh kiếm đâu được cái thùng carton, bỏ vào đấy một manh bố, vài miếng giẻ rách lót ổ cho Miêu Nữ nằm cử. Và ngày ấy thật vô cùng đặc biệt. Miêu Nữ nằm trong thùng kêu meo meo, bức rức không yên. Biên Khuỳnh ngồi một bên, thỉnh thoảng đưa tay vuốt đầu Miêu Nữ để an ủi. Nhiều người đứng chung quanh, hai tay chống đầu gối, chổng khu nhìn vào. Đây mới là giờ phút “đàn bà đi biển một mình”. Miêu Nữ rướn mình. Rặn. Một cái đầu bé tí thò ra. Lại thụt vào. Rặn nữa. Lại thò ra. Rồi nguyên cái đầu lòi ra luôn, tới cổ bị mắc kẹt, khựng lại. Miêu Nữ hết hơi, ngưng rặn, thở lấy sức.
“Phải giúp Miêu Nữ, lôi hài nhi ra.” Một bàn tay thò vào.
Biên Khuỳnh cầm chiếc đủa, gõ mạnh bàn tay: “Đừng! Để tự nó đẻ.”
Có anh sớn sát kêu lên kinh ngạc: “Sao nó đẻ bằng lỗ đít nhỉ?”
“Điên! Chỉ có chị của ông đẻ bằng lỗ đít. Chứ mèo phải đẻ bằng âm hộ.”
Hiệp thứ hai. Miêu Nữ lấy hết sức. Rặn nữa. Phọt ra nguyên một sinh vật bằng ngón chân cái và trơn nhớt như có bọc nhờn bao quanh. Nhiều người thở phào. Hình như trong lúc Miêu Nữ rặn, nhiều người cũng rặn theo.
Có tiếng reo: “Mèo đẻ bọc điều. Con này đúng là quý tử.”
“Con nào mới ra cũng nằm trong bọc như nhau. Chả có gì lạ.”
Miêu Nữ quay lại liếm sạch chất nhờn cho con. Sinh vật hiện nguyên hình đỏ hỏn, hai mí mắt còn dính liền không mở được. Nếu không tận mắt nhìn thấy mèo đẻ, chưa chắc ai đã đoán được sinh vật đang ngo ngoe này là một con mèo con.
Miêu Nữ đẻ chưa xong. Tiếng kẻng từ ngoài cổng vang lên, báo hiệu giờ xuất trại lao động buổi chiều. Mọi người dãn ra, chuẩn bị đi làm. Mấy lần Biên Khuỳnh rời thùng carton, nhưng Miêu Nữ chồm lên, kêu meo meo réo gọi. Anh quay lại, ngồi kế bên. Miêu Nữ lại nằm xuống, chuẩn bị đẻ tiếp. Miêu Nữ cần sự có mặt của Biên Khuỳnh, và anh cũng không nỡ rời xa con vật trong cơn đau đẻ. Lần đầu tiên, anh em đội Xây Dựng thấy được chân tình thiết tha gắn bó giữa người và vật, ai cũng cảm động. Anh em đề nghị Biên Khuỳnh khai bệnh nghỉ lao động, ở lại lán để đỡ đẻ và săn sóc cho Miêu Nữ.
Trước khi rời trại, có anh dặn: “Nhớ giữ cái nhau mèo. Quý lắm đấy.”
“Giữ lại làm gì? Các ông định ăn sao? Nghe nói, ăn nhau người để tẩm bổ hay trị bệnh gì đó, nhưng phải là nhau của đàn bà con so mới tốt. Còn nhau mèo, chưa nghe nói có ai ăn. Các ông định tẩm bổ hay trị bệnh?”
“Không phải ăn. Ai làm chủ cái nhau mèo, sẽ gặp nhiều điều hên.”
“Nhảm! Thế mà cũng có người tin được.”
“Không tin thì để cho người khác tin. Việc gì phải phê bình chỉ trích?”
Một anh lên giọng dạy đời: “Trong cơn tuyệt vọng, đôi khi niềm tin là chiếc phao cứu mạng. Trên đường đời, lấy niềm tin để xoa dịu những bất trắc đớn đau, làm hành trang đi tới. Kẻ nào không có niềm tin, thấy tương lai chỉ là một hố huyệt bi thảm sau cùng.”
“Ha ha ha... Từ một cái nhau mèo, sinh ra lắm câu triết lý cải lương!”
Suốt khoảng đường từ trại đến hiện trường lao động, cái nhau mèo và niềm tin là đề tài bàn luận của anh em đội Xây Dựng.


Miêu Nữ sinh tư. Một thằng Cu, lông mướp giống bố như in. Ba cái Bướm, lông trắng vá vàng như mẹ. Miêu Nữ đúng là mẹ đảm, vừa lo bắt chuột nuôi mình, vừa cho con bú mớm chu đáo. Bầy con lớn nhanh như thổi. Sau một thời gian ngắn, thằng Cu Mướp vượt trội và bộc lộ cái tính hung hăng giành giật. Khổng Tử viết: “Nhân chi sơ tính bổn thiện”, e rằng không đúng với trường hợp Cu Mướp. Mỗi lần bú, nó đạp con này, hất con kia. Và khi cái vú nó đang bú hết sữa, nó sẵn sàng dùng đầu ủi văng những con khác để chiếm lấy cái vú nào còn mọng sữa. Nhìn bản chất mà đặt tên, anh em đội Xây Dựng đặt cho nó cái tên rất ư là phá hoại xã hội: Thằng Ăn Cướp.
Ban ngày là thời gian Miêu Nữ cho con bú và nghỉ ngơi. Đêm, nó ra ngoài, lẫn vào bóng tối, dầm trong sương đêm, rình rập săn mồi, tha chuột về cho con. Chuột lớn, nó xé ra từng mảnh cho con dễ ăn. Chuột nhỏ, nó không cắn chết, chỉ làm con vật mất đi sự lanh lẹ, để con nó tập vờn, chụp, bắt cho quen việc săn mồi. Lần nào, Thằng Ăn Cướp cũng giành lấy để tập, và ăn một mình. Anh em đội Xây Dựng thường gõ đầu, dạy cho nó biết thế nào là luật công bằng. Nhưng Thằng Ăn Cướp vẫn tính nào tật ấy, không thay đổi.
Chăm chỉ nuôi con được ba tháng, Miêu Nữ bắt đầu ruồng rẫy đàn con. Nó lại động đực, và đi tìm tình nhân mới. Khi nó nằm, đứa con nào còn quyến luyến mẹ, mon men tới gần cọ dựa, bị nó vả vào mặt, nhe nanh làm dữ rồi đứng dậy lạnh lùng bỏ đi.
Dù biết đấy là bản năng bản năng tự nhiên của loài vật, nhưng có anh cũng mượn cớ chửi xéo: “Đồ hư đốn mê trai, nhẫn tâm dứt tình mẫu tử.”
Anh khác thêm vào: “Thế cũng còn khá. Miêu Nữ nhà mình nuôi dạy con cho đến ngày biết tự lập. Nhiều bà vừa đẻ con ra, liền thả trôi sông, hoặc bóp mũi ném vào thùng rác như ném một món nợ đời. Hạng ấy còn thua xa Miêu Nữ.”
Biên Khuỳnh bực dọc: “Tại sao chuyện gì các anh cũng bắt quàng sang loài động vật có xương sống thẳng đứng?”
“Đừng cay cú bạn ạ! Trong đội Xây Dựng, bạn không phải là người duy nhất bị vợ bỏ. Và nếu tính cả trại, khối thằng khác còn đau hơn bạn nữa. Hãy chịu khó động não một chút đi. Ở tù, có vợ hay không, đều như nhau cả. Mai kia được thả ra ngoài. Thằng nào còn vợ thì cứ thế mà tiếp tục cuộc chơi. Thằng nào mất vợ thì bỏ thời gian đi quơ quào đâu đó, cũng kiếm được một con đàn bà điền vào khoảng trống. Trên quả đất lúc nhúc đầy người ta này, không thiếu giống cái.”
“Nói nghe dễ! Người chứ đâu phải vật mà bạ đâu xâu đó?”
“Hừm! Cứ suy tận cùng bằng số, mọi sự gán ghép giữa nam và nữ, đều vì cái ấy của nhau thôi!”
Một anh lên giọng mô phạm, phê bình: “Đúng là lý luận của bọn háo dâm, tôn thờ dục lạc!”


Một ngày, Biên Khuỳnh cùng nhiều người khác, được lệnh tha khỏi trại cải tạo. Trong thời gian chờ làm thủ tục phóng thích tù nhân, Biên Khuỳnh đan một cái lồng trúc, dự định sẽ đem Miêu Nữ về cùng anh. Bằng hữu nói, giới xe đò thường tin dị đoan, không chịu chở mèo, sợ bị điềm xui gây ra tai nạn dọc đường. Và khuyên anh nên để Miêu Nữ lại cho đội Xây Dựng nuôi để chuyến đi về của anh khỏi gặp trắc trở.
Cuộc chia tay nào cũng buồn. Nhưng cuộc chia tay giữa Biên Khuỳnh và Miêu Nữ, có pha thêm nước mắt.
Anh ôm Miêu Nữ: “Con ơi, bố không muốn bỏ con, nhưng bố con mình đành phải xa nhau thôi. Một phần máu thịt của con, không biết có hên hay không, nhưng bố giữ nó và luôn mang theo mình như một kỷ vật.”
Biên Khuỳnh móc trong đãy nhỏ bằng vải, một cái nhau mèo đã phơi khô, đưa cho Miêu Nữ ngửi như chứng minh lời nói của mình rồi cẩn thận cất vào trong đãy. Anh bắt tay anh em đội Xây Dựng. Ôm Miêu Nữ lần chót. Hai mắt anh đỏ hoe, cúi mặt xuống sát Miêu Nữ như hôn từ biệt. Mang túi xách lên vai, anh đi thẳng ra cổng trại, không dám quay đầu nhìn lại.
Miêu Nữ không biết đó là lần chia tay cuối cùng với bố nuôi của nó. Nhưng đến tối, nơi chỗ nằm hằng đêm, không thấy Biên Khuỳnh, nó kêu meo meo, và quanh quẩn đi tìm đến tội nghiệp. Những ngày sau, nó vẫn còn thơ thẩn đi tìm. Gặp ai nó cũng ngước lên, kêu meo meo, như hỏi: “Bố tôi đâu rồi?”
Sau đợt thả tù, các trại thưa người. Ban chỉ huy dồn tù nhân lại để dễ bề quản lý. Trại cũ bỏ trống. Anh em đội Xây Dựng đem Miêu Nữ và đám con của nó theo. Nhưng chỉ một đêm, Miêu Nữ bỏ đi đâu mất. Mãi sau này, có người ngang qua trại cũ, ghé vào tìm vài thứ vật dụng còn sót, thấy Miêu Nữ đã về lại nơi đây, lảng vảng nơi chỗ nằm có hơi hướm bố nuôi của nó. Lán trại chỉ còn những đồ đạc phế thải vất ngổn ngang. Và trên sạp gỗ, vẫn còn cái thùng carton lật nghiêng với manh bố rách. Thời gian phủ lên mọi vật một lớp bụi mờ mờ. Biên Khuỳnh đã đi rồi, Miêu Nữ ở với ai?


dòng đời trôi,
Biên Khuỳnh về đâu?
Miêu Nữ bây giờ ra sao,
giữa những điêu tàn hoang phế?
“Ông nói gì thế? Vợ ông Lâm hỏi.
Ông đang mơ màng về quá khứ, nghe vợ hỏi, giật mình: “Không! Chẳng nói gì.”
Quay qua các con, bà nói: “Má thấy nhiều khi ba của tụi bây ngồi lặng hàng giờ, thỉnh thoảng cười vu vơ, hoặc lảm nhảm một mình. Đó là dấu hiệu của tuổi già. Lẫn rồi đấy!”
Đứa con gái lớn: “Con nghe nói, những người tù cải tạo ở Việt Nam, tinh thần bị khủng hoảng, tâm trí mất bình thường. Hay là con đưa ba đến bác sĩ tâm thần khám thử xem sao?”
Ông Lâm cười lớn: “Chỉ có mẹ con tụi bây điên thôi. Con có bao giờ nghe nói, tuổi trẻ nhìn tới tương lai, người già nhìn về quá khứ?”
Mấy đứa con vỗ tay: “A... Ba của tụi mình đang nhìn về cái thời còn làm quan, mang hia đội mảo!”

Lâm Chương

Những Ngày Mắc Cạn


Sau khi cởi hết những áo quần vá víu chùm đụp, chỉ còn cái quần xà lỏn che phần hạ bộ, tôi nấn ná xin được hút một bi thuốc lào.
“Lắm chuyện.”
Viên sĩ quan an ninh cau mặt nói, nhưng anh ta cũng không từ chối. Anh bảo vệ binh cho mượn điếu cày, và cho tôi bi thuốc. Tất cả những động tác nạp thuốc, châm lửa, rít khói, ém khói, tôi làm rất chậm. Cố ý kéo dài thời gian hít thở không khí bên ngoài.
“Khoái chứ?” Viên sĩ quan hỏi.
“Khoái.” Tôi nói trong cơn tê rần cơ thể.
“Tiên Lãng chính hiệu đấy.”
“Hèn gì say ngất. Có được mang vào trong ấy không?”
“Không. Quy định là thế. Sáng nay, anh đã nghe rõ lệnh phạt chứ?”
“Nghe rõ.”
Anh ta an ủi: “Thế đấy. Ráng chịu khó nằm trong ấy một thời gian. Đừng làm bậy, có hại sức khoẻ.”
Nằm trong ấy, có hại sức khoẻ là điều hiển nhiên. Nhưng làm bậy là làm gì? Tôi đưa mắt ngó anh ta, không hiểu.
Viên sĩ quan giải thích: “Trước kia, các anh thường xem hình đàn bà ở lổ, chơi bời quen thói. Không có đàn bà, lại thủ dâm. Hại lắm. Đừng nhé.” Khi nói điều này, anh ta hạ thấp giọng, ra vẻ thật tình khuyên bảo.
Đây không phải là lúc để cải chính về vấn đề chơi bời quen thói, và thủ dâm. Từ lúc còn trên ghế nhà trường, người ta đã gieo vào đầu anh rằng “quân ngụy” là một tập hợp điển hình tất cả những bỉ ổi xấu xa nhất trên cõi đời này. Cải chính cũng vô ích. Tôi chỉ lắc đầu.
“Có đàn bà cũng không còn sức mà làm. Nói chi đến chuyện thủ dâm.”
“Nhắc chừng thế thôi. Bây giờ vào nhé!”
Viên sĩ quan dẫn tôi đến phòng kỷ luật.
Triền núi nằm nghiêng, người ta vạt bớt một mảng thành vách núi thẳng đứng. Từ chân vách, lại khoét năm cái lỗ theo chiều ngang mặt đất, sâu vào khoảng hai thước. Bề cao không đủ để một người đứng thẳng lưng. Cái lỗ méo mó, lồi lõm tùy theo đá núi. Gọi là cái lỗ hay cái hang, cũng như nhau thôi. Nhưng người ta đặt tên theo công dụng của nó: phòng kỷ luật. Đã gọi là phòng kỷ luật, ai chui vào trong ấy, nhất định không thể nào cảm thấy thoải mái được. Có năm phòng. Hai phòng đã có người, đó là hai người bạn cùng chuyến đi với tôi. Tôi chiếm một phòng nữa, là ba. Vật dụng được mang theo: một gon Guigoz nước uống, một ống bương dùng chứa nước tiểu, đôi khi chứa cả phân.
Vừa chui vào, tôi nghe mùi gì rất lạ.
“Anh bị cùm hai chân trong mười lăm ngày, hơi khó chịu một chút. Sau được giảm bớt, còn cùm một chân.”
Cùm hai chân mà anh ta nói chỉ hơi khó chịu một chút? Hình phạt thế nào mới thật sự khó chịu? Anh ta đã đơn giản hoá tôi thành một con vật trong chuồng, không nghĩ rằng tôi còn có tinh thần của một con người. Nhiều khi tinh thần là yếu tố chính làm ra sự tử vong. Nhưng trong hoàn cảnh này, lên tiếng hỏi tới hỏi lui, chẳng những đã không lợi gì, còn gây thêm ác cảm.
Tôi đặt cườm chân vào giữa hai cái khoen sắt hình lưỡi liềm. Anh ta khép lại. Hai cái khoen ráp thành vòng tròn, ôm gọn cườm chân.
“Xong nhé! Có gì thì kêu lớn, nhưng tốt hơn không nên làm ồn. Nằm nghỉ ngơi nhé!”
Viên sĩ quan khép cánh cửa liếp đan bằng nứa. Tiếng khoá khua lách cách bên ngoài.
Tôi nghe tiếng dặn vệ binh: “Hãy cẩn thận. Không được tự động nói chuyện với thằng trong ấy.”
Nhanh thật! Mới vừa gọi tôi bằng anh một cách tử tế, thoáng chốc đã gọi bằng thằng.
Phòng kỷ luật không tối hẳn. Ánh sáng ban ngày hắt qua cửa liếp. Mới vào, tối om om. Dần dần quen mắt, thấy được mờ mờ. Khi mọi vấn đề đã không còn có thể thay đổi, phải hết sức bình tâm để đón nhận hoàn cảnh hiện tại. Suy tư, buồn rầu, oán hận chỉ làm tinh thần thêm đau khổ, thân xác sẽ không chịu nổi với tình huống khắc nghiệt.
Tôi bắt đầu quan sát, làm quen với chỗ ở mới. Trên nóc phòng có những tảng đá lớn nhô ra, không có gì chống đỡ. Nếu chẳng may, đất đá sụp lở, chưa kịp bắt chước Kim Thánh Thán mà kêu lên: “Âu! Cũng là định mệnh.” thì tôi đã bị chôn sống trong cái hang này rồi. Nghĩ vớ vẩn thôi, chứ không lẽ đời tôi đen đến thế? Nằm xuống thử, dưới lưng lởm chởm cấn cái. Khốn nạn! Những anh tù khi được lệnh công tác, chỉ cốt làm cho xong việc, không chịu khó cạy bớt những viên đá nhọn. Họ quên nhìn xa hơn trong tương lai, sẽ có những người bạn của mình thọ nạn vào đây. Để đỡ cấn lưng, người ta trải một lớp rơm làm nệm lót. Đã nhiều đợt người vào ra, nằm mãi làm lớp rơm xẹp lép. Ẩm mốc, mồ hôi, và nước tiểu. Tất cả hoà quyện thành một thứ mùi khó tả. Nhưng chỉ một lúc sau, không còn nghe mùi gì nữa. Khứu giác tôi đã nhanh chóng thích nghi với bầu không khí ẩm thấp này.
Mỗi phòng kỷ luật có một chiếc cùm. Mỗi chiếc cùm có hai cái khoen bằng sắt dẹp, vừa đủ để tra vào cườm chân. Tôi đã nghe những bậc đàn anh từng trải qua phòng kỷ luật, nói về chiếc cùm này rồi. Bây giờ mới thấy được tai hại của nó. Đáng lẽ phải gò mài cho nhẵn cái khoen sắt, nhưng mấy anh tù thợ rèn lười biếng và tắc trách, để cái khoen còn sần sùi góc cạnh, dễ làm trầy lở cườm chân. Cứ tưởng tượng cườm chân bị lở loét, thường xuyên va chạm với cái khoen sắt thì đau đớn tới cỡ nào? Kinh nghiệm của người đi trước dạy, tuột cái quần xà lỏn xuống chêm vào vòng trong cái khoen, giữ cho cườm chân được êm ái, đừng để bị trầy thành ghẻ. Tôi áp dụng ngay kinh nghiệm này, bảo vệ cườm chân trước tiên. Cũng may, người ta còn cho mặc quần. Nếu bắt ở truồng, lấy vải đâu mà chêm cái khoen sắt.
Chiếc cùm có thể đóng mở bởi một thanh sắt dài thông ra ngoài phòng kỷ luật. Cái khoá cũng ở ngoài. Thanh sắt được gắn thêm cái chốt bằng gỗ, trông như chiếc thập giá nằm ngang. Đêm đêm, vệ binh tuần tiểu canh gác bên ngoài, muốn kiểm soát tù nhân, hắn chỉ cần đạp mạnh lên cái chốt ngang làm xoay thanh sắt. Và cái khoen bên trong sẽ vặn nghiến vào cườm chân. Tù nhân la lên: “Ối! Trời ơi!” Thế là hắn biết có người còn nằm trong đó. Lại cũng kinh nghiệm sau nhiều lần bị đau của đàn anh, dạy rằng giữa khuya thanh vắng, nghe tiếng dép râu đi lẹt rẹt, phải lập tức ho lớn. Không muốn ho cũng phải ho. Mục đích báo cho hắn biết, ta vẫn còn đây. Thế nhưng, canh gác một mình trong bóng tối, hắn buồn ngủ, đôi khi hắn vẫn đạp cái chốt ngang để nghe tiếng kêu trời đau đớn. Một trò chơi làm cho hắn tỉnh ngủ.
Phải sửa soạn nơi ăn chốn ở cho thật tiện nghi. Tôi vói tay kéo những rơm thừa chung quanh, độn cao lên làm chỗ gối đầu. Nằm ngửa xuống thử, nghe cũng thoải mái. Lúc nằm ngửa, đầu quay vô phía trong, chân hướng ra ngoài. Như thế, khi ngồi mặt hướng ra cửa liếp. Đã vào đây rồi, không còn ai quấy rầy nữa. Nội bất xuất, ngoại bất nhập. Không chừng, ở một nơi yên tịnh thế này, tôi có thể chiêm nghiệm được những triết lý sâu xa của nhà Phật. Tệ lắm cũng làm ra thơ. Nghĩ vớ vẩn cho quên bớt điều bi thảm, chứ thơ thẩn gì trong lúc khốn cùng đau khổ.
Tùy theo mức độ của sự trừng phạt mà bị cùm một, hoặc hai chân. Bị cùm một chân, có thể nằm ngửa, hoặc xoay trở nằm nghiêng qua phía cái chân không bị cùm. Cùm hai chân, nằm ngửa là kiểu nằm duy nhất. Đang bị cùm, muốn nằm ngồi tùy ý, nhưng tuyệt đối không thể đứng.
Ngoại trừ những lúc ngủ, thời gian còn lại, tôi thường chọn thế ngồi, chân duỗi thẳng. Nhưng cứ nằm ngồi hoài một chỗ, e bị tê liệt mất. Tôi tìm cách vận động, quơ hai cánh tay đủ kiểu, mục đích làm cho máu lưu thông. Có lúc, tôi đấm lia lịa vào không khí như võ sĩ boxer đang dợt bao cát. Hoặc nằm ngửa, hai bàn tay để sau ót, gắng sức ngồi lên, nằm xuống. Đây là kiểu tập làm tan mỡ cho những người bụng bự. Cái bụng ốm đói của tôi, từ lâu rồi, đâu còn mỡ mà tan? Nếu thế, cứ coi như động tác tập dưỡng sinh của các nhà Yoga vậy.
Chỉ cần một buổi ở trong phòng kỷ luật, tôi khám phá ra rằng tôi không phải là sinh vật duy nhất trong cái hang này. Còn có những con gián cánh nâu nữa. Khi tôi nằm yên, gián từ đâu trong kẽ đá bò ra leo lên người, nhiều khi nó còn cả gan gặm nhấm thử đầu ngón tay tôi. Tao chưa trở thành món ăn của mày đâu. Hãy đi chỗ khác chơi! Tôi chụp, và ném mạnh vào cửa liếp. Con gián bị ném, nếu không chết cũng bị chấn thương trầm trọng. Ngoài gián, tôi còn phải đương đầu với một đoàn quân bất trị khác. Lớp rơm ẩm lâu ngày sinh ra mạt. Ấy là loài bọ nhỏ li ti, nhỏ hơn rận chó, thưòng xuất hiện ở gà. Với ánh sáng mờ mờ trong phòng kỷ luật, không thể nhìn thấy con mạt. Nhưng suốt ngày đêm, nó cứ bò nhồn nhột trên da làm ngứa ngáy khó chịu. Gãi sẽ trầy thành ghẻ. Dùng bàn tay chà xát chỗ này, lại nghe ngứa chỗ kia. Nó tấn công vào những vùng da non. Chỉ vài ngày sau, nách và háng sần lên như bị nổi sảy. Muốn tiêu diệt đoàn quân mạt, phải dùng chiến thuật hoả công. Trong hoàn cảnh khốn nạn hiện thời, tôi đành chịu thua.
Mỗi ngày, sáng trưa chiều. Từ ngoài cổng, vọng vào ba tiếng kẻng, rồi tiếp theo một chuổi âm thanh dài và nhỏ dần. Người ta lấy một mảnh gang vỡ của quả bom, treo lên làm kẻng. Dùng chiếc dùi sắt đánh mạnh, phát ra âm thanh rổn rảng chát tai. Không như tiếng chuông chùa ngân nga âm u lắng đọng. Tiếng kẻng làm âm thanh vỡ vụn như những mảnh kim khí nhọn sắc vô hình đâm vào tim nhoi nhói, va vào đầu làm xốn xang nhức óc. Nghe nói, người ta lấy mảnh bom vỡ làm kẻng như một cố ý nhắc nhớ hận thù về cuộc không tập tàn khốc của Mỹ trong thời kỳ chiến tranh vừa qua.
Sau tiếng kẻng buổi sáng, viên sĩ quan an ninh mở khoá cùm, giao tôi cho một vệ binh dẫn đi làm công việc vệ sinh cá nhân. Đầu tiên, hắn dẫn tôi tới nhà cầu, tiêu tiểu và đổ ống bương chứa nước tiểu trong một ngày đêm vừa qua ở phòng kỷ luật.
Nhà cầu làm bằng hai thanh gỗ bắc song song. Che chắn chung quanh bằng liếp nứa. Bên trong ngăn ra từng phần để nhiều người có thể đi cầu cùng một lúc. Phía trên cũng lợp mái nứa. Phía dưới đào một cái rảnh lộ thiên, dùng chứa phân. Hàng tuần, có tù nhân quét dọn, và xúc phân đem ủ để bón rau sau này.
Có hai dãy nhà cầu. Dãy dành cho sĩ quan và vệ binh được thiết kế lịch sự hơn bằng những tấm liếp che khuất người ngồi trong ấy. Dãy cho tù được phái lên Đoàn làm tạp dịch, liếp nứa chỉ che lưng lững tới cổ. Người bên ngoài, có thể nhìn thấy cái đầu của người đang đi cầu. Ngược lại, ngồi trong cầu cũng thấy được mọi vật bên ngoài. Cái ghê tởm nhất là nhìn xuống phía dưới rảnh phân. Dòi bọ lúc nhúc. Ruồi nhặng bay vo vo, bu cả lên người. Nhiều khi còn có những con chim lông đen đáp xuống ăn dòi. Vừa ăn, chúng vừa kêu chíp chíp như tiếng gà con. Từ hai dãy cầu tiêu, bốc ra một mùi hôi kinh khiếp.
Khi tôi ra khỏi nhà cầu, vệ binh dẫn đi lấy nước nơi một cái giếng. Giếng đào ở đây cũng lạ. Miền cao, đồi núi chập chùng. Mùa mưa, nước từ trên đỉnh đổ xuống những nơi tiếp giáp núi đồi thành đường nườc chảy. Người ta đào giếng chận ngang đường nước ấy. Đất đá đem lên, chất cao chung quanh làm bờ giếng. Nhiều tảng đá to đến cả người ôm. Và miệng giếng cũng rộng như một cái ao, đường kính mấy sải tay. Muốn lấy nước, phải đứng chàng hãng trên hai thanh gỗ gác ngang miệng giếng để kéo nước lên. Nước giếng xanh, trong vắt.
Có lần, tôi đứng gần miệng giếng, hít thở, quơ tay, và và nhún nhảy cho máu lưu thông.
Vệ binh nhìn tôi bằng ánh mắt rất lạnh.
“Anh làm cái trò gì thế?” Tiếng nói phát ra như tiếng rít giữa hai hàm răng.
Tôi nói: “Rũ liệt cả người. Vận động tay chân một chút.”
“Rởm! Lấy nước rồi vào ngay!”
“Mình mẩy hôi quá. Tôi xin được tắm.”
“Không được. Quy định mỗi tuần chỉ tắm một lần.”
“Nhưng vừa ở trong cầu tiêu ra, người tôi hôi lắm.”
“Lảm nhảm mãi! Có chịu lấy nước, hay muốn vào cùm ngay?”
Hắn nách ngang cây súng AK, chỉa về hướng tôi như sắp sửa bắn tới nơi. Những tên hèn mọn gặp thời, thường có thái độ hống hách, dọa nạt người thất thế. So với viên sĩ quan an ninh cáo già thì tên vệ binh chỉ đáng hạng gà con. Tôi đoán, cái mặt non choẹt này chưa biết nếm mùi chiến trận là gì. Cứ tưởng có cây súng trong tay là có được hào quang của người chiến thắng. Viên sĩ quan an ninh mới đáng gờm. Anh ta không cần phải thị uy những lúc không cần thiết. Nói năng hoà nhã đường hoàng. Mặt không biểu lộ sắc thái thù hằn, nhưng thủ đoạn thì khỏi chê. Mấy ngày trước, tôi xin cho thay lớp rơm lót trong phòng kỷ luật. Anh ta nói, hãy thư thả, chờ trình với cấp trên rồi mới quyết định được. Chờ mãi, vẫn không thấy gì. Tôi biết, anh ta cố tình lờ đi để những con mạt hành tôi suốt ngày đêm cho bỏ ghét. Thế mới đáng sợ. Chứ tên vệ binh này chỉ là loại gà con háu đá. Nếu tao không ở vào hoàn cảnh sa cơ thất thế, tao bẻ cổ mày như chơi, con ạ! Tôi thầm nghĩ vậy.
Tôi lấy nước vào lon Guigoz xong, hắn dẫn trở lại phòng kỷ luật, và gọi viên sĩ quan an ninh tới đóng khoá cùm. Tôi đặt cườm chân vào khoen sắt hình lưỡi liềm. Viên sĩ quan chưa khép vội, hỏi tôi có cần gì không? Tôi cần nhiều thứ, nhưng biết khó được thoả mãn nên chỉ xin hút một bi thuốc lào.
“Ghiền đến thế cơ à?”
“Vâng. Trước kia ghiền thuốc lá. Đi cải tạo ghiền thuốc lào.”
Anh ta đưa tôi vào phòng làm việc, và tự tay châm lửa đóm cho tôi. Tôi cám ơn. Bao giờ anh ta cũng giấu kín sự nham hiểm phía sau những cử chỉ khéo léo nhẹ nhàng.
“Anh muốn viết thư về cho gia đình không?” Viên sĩ quan hỏi.
Tôi ngạc nhiên: “Bị kỷ luật cũng được gởi thư sao?”
“Tình cảm gia đình là thiêng liêng, cách mạng không hề chối bỏ. Viết thư nhé?”
Tôi tôi gật đầu, cám ơn lần nữa.
Anh ta đem cho tôi bì thư, giấy bút, và dặn: “Ngồi đây viết thoải mái. Viết xong, cho vào bì, dán kín lại. Một tiếng đồng hồ thôi nhé.” Nói xong, anh đi ra ngoài.
Tôi biết ngay đây là một trong những phương thức tìm hiểu, kiểm soát tư tưởng tù nhân. Dù anh ta bảo dán kín bì thư lại, nhưng rồi nó sẽ được mở ra, và tấm lòng người viết phơi trải qua những dòng chữ nhắn gửi gia đình. Nếu không có gì đáng quan tâm, cái thư sẽ đi vào sọt rác. Nếu lời lẽ mập mờ khó hiểu, hoặc thán oán chế độ thì hậu quả khốn nạn sẽ không lường nổi. Người ta sẵn sàng tiêu diệt bất cứ cái đầu bất mãn nào manh nha mầm móng chống đối chế độ.
Phần đầu thư, tôi hỏi thăm sức khoẻ vợ con, và nhắn nhủ hãy cố gắng trở thành con người mới để mau chóng hội nhập vào xã hội mới một cách tốt đẹp. Câu này như một thần chú quen miệng, như một thứ làm bùa hộ mệnh, như một thành ngữ sau cuộc đổi đời khi nền tảng xã hội bị bứng tận gốc rễ.
Phần hai, tôi viết tôi có cái may mắn được giáo dục bởi những cán bộ đại lượng và cảm thông. Lời lẽ tâng bốc, mục đích chỉ để vuốt ve viên sĩ quan an ninh. Anh ta mà có ác cảm thì đời tôi sẽ tiêu tùng bất cứ lúc nào. Tôi không nói gì về chuyện đang bị cùm, và đang đói rã ruột. Dưới chế độ này, có hai ngôn từ tuyệt đối cấm sử dụng: tù và đói. Tất cả đều phải nói khác đi. Tù khổ sai là học tập cải tạo. Tù nhân là cải tạo viên. Vì thế, đã xảy ra lắm chuyện khôi hài. Có anh đói quá, viết thư về nhà nói rằng đang bị bệnh bao tử, xin tiếp tế. Một thời gian lâu sau, anh nhận được gói quà, trong ấy toàn là thuốc chữa bệnh bao tử. Kèm theo gói quà, lá thư của vợ anh cho biết phải bán quần áo và đồ đạc trong nhà để lấy tiền chạy thuốc cho anh. Đọc thư, anh nhếch cười. Cái cười như mếu.
Cuối cùng, tôi viết một câu thiệu, bất cứ tù nhân nào cũng thuộc lòng rằng luôn luôn tích cực cải tạo tốt để sớm trở về đoàn tụ với gia đình. Thế là xong. Đọc lại, kiểm soát lần nữa. Cái thư thật hoàn hảo. Đúng lề lối văn phong của một cải tạo viên tốt. Tôi cho vào bì, dán cẩn thận. Trước khi trở lại phòng kỷ luật, tôi còn xin hút thêm bi thuốc nữa. Viên sĩ quan vui vẻ chấp thuận ngay.
Sáng hôm sau, anh ta mở khoá cùm cho tôi ra ngoài làm công việc vệ sinh cá nhân như thường lệ. Mắt anh nhìn tôi xoi mói, nhưng miệng lại cười mỉa.
“Ma mãnh vừa thôi.”
“Cán bộ nói gì, tôi không hiểu?” Hỏi thế, nhưng tôi nghĩ ngay đến bức thư hôm qua, anh ta không tìm thấy một sơ hở nào.
“Hừm... Anh khôn một. Chúng tôi khôn mười.”
Lời nói có vẻ tự thị kiêu căng, nhưng anh ta vẫn hỏi tôi có muốn được tắm hai lần một tuần không? Đây là một biệt lệ không ngờ. Bức thư đã có tác dụng với viên sĩ quan an ninh chăng? Tôi trả lời muốn, và không quên cảm ơn lòng tốt của anh ta. Anh dặn vệ binh dẫn tôi đi tắm sau khi ra khỏi cầu tiêu.
Nơi đây, từ trên xuống dưới, toàn một lũ đàn ông nên chẳng ai cần làm phòng tắm. Cũng chẳng có lu chứa nước. Cứ mặc nguyên quần xà lỏn. Kéo nước lên trong cái gàu đan bằng nứa. Nhích ra khỏi miệng giếng. Đứng giữa trời mà trút cả gàu nước lên đầu. Kỳ cọ xong, lại kéo gàu nước khác. Xà bông là loại sản phẩm quý hiếm, may ra cán bộ mới có được. Lúc tôi cởi quần để vắt cho ráo nước, vệ binh quay mặt hướng khác. Tôi nhìn xuống, cái bụng hóp lại, hai bên xương hông nhô ra như một xác khô. Thê thảm nhất là phần hạ bộ. Bèo nhèo ủ rủ. Lâu rồi, nó không cất đầu lên nổi. Tôi chợt nhớ bài thơ “Tâm Sự Với Buồi” làm trong thời gian chưa bị kỷ luật.
Ngày hai bữa, sắn khô nước muối
Thì làm sao khỏi đói, buồi ơi!
Đêm, ta trằn trọc ngậm ngùi
Đưa tay sờ thử, thấy buồi xuội lơ.
Ta vọc mãi, buồi trơ ra đó,
Cứ ỡm ờ, ủ rủ buồn thiu.
Thương ta đói khổ đủ điều,
Thương buồi tê liệt đã nhiều năm qua.
Nếu mai mốt được ra khỏi trại,
Ta trở về gặp lại hiền thê.
Vợ yêu chìu chuộng vuốt ve
Mà buồi vẫn gục. Chết ta! Chết buồi!
Đang nghĩ ngợi miên man, tôi giật mình vì tiếng hỏi của vệ binh.
“Anh đã mặc quần vào chưa?”
“Chưa.”
“Lâu thế? Định khoe của quý à?”
“Quần chưa khô.”
“Ối giời! Bao giờ mới khô được. Khẩn trương mặc vào ngay!” Hắn hét lên.
“Vâng. Vâng ... Xong rồi.”
Vệ binh quay mặt lại, trừng mắt: “Lề mề... Mất cả thể thống.”


Ban ngày, nhiệt độ trong phòng kỷ luật thấp hơn bên ngoài. Hơi lạnh toát ra từ trong đất đá. Ban đêm, gió lùa qua cửa liếp, càng lạnh hơn. Khi ngủ, tôi khoanh hai tay để giữ hơi ấm cho buồng ngực. Trời nắng ráo, còn dễ chịu đôi chút. Sau cơn mưa vài ngày là một cực hình ghê gớm. Nước thấm vào đất núi, ứa ra đọng thành giọt theo những vú đá trên nóc. Lâu lâu, rớt xuống một giọt. Khó mà ngủ với những giọt nước rớt lên người. Lớp rơm lót dưới lưng cũng ẩm hơn. Cả người cứ nhơm nhớp, khó chịu. Sức khoẻ tôi vốn đã tồi tệ, càng suy kiệt rất nhanh. Không chợp mắt được, lại phải ngồi một chỗ, tôi cảm thấy thời gian dài khủng khiếp. Làm sao quên bớt thời gian? Tôi nghĩ đến thiền. Xưa nay, tôi có biết hành thiền là gì đâu. Thấy những nhà sư ngồi lim dim đôi mắt, giờ đây, tôi cũng bắt chước làm thử. Nhưng những giọt nước lạnh và lũ mạt hoành hành ngứa ngáy, tôi không thể nào ngồi yên.
Những mẩu chuyện về các thiền sư có thuật rằng, Hám Sơn đại sư lánh đời lên núi ẩn tu. Ngài chỉ ăn cám và rêu cỏ qua ngày. Có lần, Ngài nhóm lửa, bắc nồi cám lên rồi vào động ngồi thiền, chờ cho cám chín. Không biết Ngài nhập định bao lâu mà khi xả thiền, ra thăm nồi cám thì thấy đã mốc meo đóng váng tự bao giờ. Thời gian trôi qua cả tuần, nhưng đối với Ngài chỉ trong thoáng chốc. Nếu làm được như Hám Sơn đại sư thì hãm thân trong phòng kỷ luật, đâu còn là một cực hình thống khổ?
Sách có nói, khi nhập tâm suy nghĩ điều gì, đôi lúc người ta quên cả thời gian và thân xác hiện hữu. Tôi ôn lại đời tôi, từ lúc tuổi thơ cho đến trưởng thành, dấn thân vào lính rồi bước chân vào tù. Thời gian đằng đẵng mấy chục năm mà nghĩ một lúc đã thấy mình ngồi trong phòng kỷ luật. Cái nghịch lý là khi ôn lại cuộc đời vừa qua, tôi muốn kéo dài thời gian thì nó lại quá ngắn. Còn khi muốn rút bớt thời gian hiện tại thì nó lại quá dài.
Tôi tìm phương cách khác. Thử làm kẻ vô tâm, không nghĩ gì cả. Nói điều này nghe dễ, nhưng khi muốn đình chỉ tư tưởng còn khó hơn chuyện lên trời. Nhà Phật đã chẳng từng bảo rằng A Lại Da Thức mạnh như dòng thác, nếu không phải bậc thượng thừa, không dễ gì làm ngưng được, đó sao? Bao nhiêu kẻ dày công tu hành mấy mươi năm, vẫn chưa đạt đến trình độ tâm không. Sơ cơ như tôi mà trong một sớm một chiều, muốn vượt ra ngoài giới hạn phàm phu là chuyện nằm mơ.
Tôi cứ loay hoay tìm cách đốt bớt thời gian, và quên đi những giọt nước lạnh rớt lên người. Tôi tưởng tượng mình là một Lạt Ma Tây Tạng, mình trần ngồi trên tuyết. Không biết các Ngài Lạt Ma thật cảm thấy thế nào? Chứ tôi thì thấy lạnh thêm, và tưởng như đang ngồi giữa cái rét giá mùa đông.
Sau khi thử làm Lạt Ma, tôi chợt khám phá một điều, tất cả đều do tâm sinh diệt mà ra. Đức Phật đã nói thế rồi, nhưng đó là kinh nghiệm của Ngài, tôi làm sao cảm nhận? Chẳn hạn, ngày còn nhỏ nghe má tôi kể, rằng nạn đói năm 1945 ngoài miền Bắc làm chết cả triệu người. Đói tới chết là một đau khổ ghê gớm, nhưng tôi đâu biết được cái đói hành hạ thân xác thế nào? Những năm đi tù trên đất Bắc, tôi mới cảm nhận được hết nỗi quay quắt khắc khoải của người đói. Đói trằn trọc không ngủ được. Đói rã ruột, nằm nghe bụng sôi ồn ột như có những cục không khí chạy qua chạy lại trong bao tử. Đói đến nỗi muốn trở thành trâu bò để có thể ăn cỏ lá ngoài đồng nội. Đói cả trong tâm thức, vừa chợp mắt đã chiêm bao thấy mình đang ăn đám cưới, hoặc ngất ngưỡng ngồi nhà hàng thưởng thức những mỹ vị cao lương. Có điều kỳ lạ là trong chiêm bao ăn không bao giờ thấy thoả mãn. Kinh nghiệm quý giá nào cũng đều phải trải qua thử thách của chính bản thân mình.
Giờ đây, tôi hiểu được rằng, ngoại cảnh tác động do tâm sinh diệt. Để chống lại cái lạnh, tôi tưởng tượng mình là thầy trò Đường tăng trên đường đi thỉnh kinh, gặp hoả diệm sơn. Người nào cũng tháo mồ hôi nhễ nhại vì khí hậu vô cùng oi bức. Nhìn trước mặt, thấy lửa đang cháy bừng bừng. Tôi đi sâu hơn vào câu chuyện. Thổ Địa hiện hình, cho biết núi lửa này do Tôn Hành Giả gây ra. Nghĩ mình bị vu oan, Tôn Hành Giả bèn nổi giận xách thiết bảng đòi đập chết Thổ Địa. Sợ quá, Thổ Địa quỳ xuống xin tha mạng, và giải thích. Rằng năm trăm năm về trước, có con khỉ đột tự xưng Tề Thiên Đại Thánh, loạn đả thiên cung, bị bắt nhốt vào lò bát quái của Thái Thượng Lão Quân. Ông già này quyết dùng chân muội tam hoả đốt chết con khỉ đột ra tro. Nhưng Tề Thiên Đại Thánh thần thông quảng đại, đâu dễ bị hại dưới tay một ông già chuyên môn chế thuốc cao đơn hoàn tán. Tề Thiên giận sùi bọt mép, trợn mắt lửa tròng vàng, nhảy ra đá giò lái làm đổ cái lò bát quái. Một viên gạch nóng hổi rớt xuống trần gian thành hoả diệm sơn.
Nhập tâm làm thầy trò Đường tăng gặp núi lửa, tôi cảm thấy dễ chịu. Và câu chuyện thú vị làm tôi quên nghĩ đến thời gian. Cái phương pháp hoá giải nỗi đau khổ này, dễ áp dụng hơn ngồi thiền làm kẻ vô tâm. Có lúc tôi tưởng tượng mình là Tôn Hành Giả ngao du bốn cõi, tung hoành trời đất. Tưởng tượng mình là Trư Bát Giái phàm phu tục tử, ham ăn uống, thích dâm dục. Tưởng tượng mình là Sa Tăng thật thà chất phác đến ngu đần. Tôi không khoái Đường tăng nên không bao giờ tưởng tượng tôi là Đường tăng trắng trẻo mập ú, tính tình nhu nhược, chỉ biết tụng kinh.
Nhờ nghĩ chuyện Tây Du Ký, tôi quên bớt thời gian. Thấm thoát đã đến trưa. Thấm thoát đã đến chiều. Mỗi buổi tôi được phát hai khúc khoai mì dài cỡ gang tay. Tiêu chuẩn một ngày, bốn khúc. Quy định không cho tù kỷ luật ăn muối.
Sau mười lăm ngày, tôi được giảm mức độ trừng phạt xuống còn cùm một chân. Tôi thay đổi để mỗi cái chân luân phiên được nghỉ cùm một ngày. Bây giờ, tôi có thể nằm ngửa hoặc nằm nghiêng qua bên cái chân không bị cùm. Dù được thoải mái hơn đôi chút trong thế nằm, nhưng do ăn uống thiếu kém, thân xác tôi đã bắt đầu mất thăng bằng. Mỗi khi ra ngoài, tôi thấy mặt đất chao qua chao lại. Người cứ lơ lơ lửng lửng, bước đi không vững. Sắp tiêu đời nhà ma sao? Tôi nhớ lại người bạn tên Lê Thơm, một thời làm quận trưởng Chợ Lách, từng gây khốn đốn cho đối phương. Họ coi anh là kẻ ác ôn, gán biệt danh là Lãnh Chúa Chợ Lách. Khi ra Bắc cải tạo, anh vượt trại bất thành, bị bắt nhốt trong phòng kỷ luật. Thời hạn ba tháng, anh chỉ ở một tháng rưởi, rồi ra ngoài nằm vĩnh viễn dưới chân núi đồi miền thượng du. Tôi cũng rơi vào trường hợp như anh. Liệu tôi chịu được mấy ngày? Chưa có ai qua khỏi dấu mốc thời gian ba tháng trong hang động âm u này. Tôi sợ cái lưỡi hái của tử thần, mỗi ngày một nhích lại gần hơn. Sự chết ám ảnh hoài, không ngớt. Trong tuyệt vọng, không còn mong gì nơi con người, tôi hướng về thiêng liêng, và chú tâm cầu nguyện. Hư Vân hoà thượng từng nói: “Con người lúc bình thường trông thấy Tổ Đình, ngoảnh mặt đi luôn. Khi lâm nguy thì níu áo Bồ Tát.” Chẳng những tôi níu áo Bồ Tát mà còn kêu gọi luôn cả Chúa Giê Su giúp đỡ. Nếu Bồ Tát làm ngơ thì còn có Chúa.


Đoàn là Bộ Chỉ Huy tổng trại, quản lý chín trại cải tạo. Mỗi trại đều có phòng kỷ luật riêng. Đoàn cũng có phòng kỷ luật của Đoàn. Nơi đây chỉ nhốt những tù nhân đặc biệt do trại đưa lên. Hằng ngày, có một toán tù từ trại cải tạo được phái lên Đoàn làm tạp dịch. Đem phần ăn cho tôi cũng do một anh tù, vệ binh theo sau kiểm soát. Anh này có nhiệm vụ quét dọn cầu tiêu, và làm sạch sẽ khu vực nhà bếp của Bộ Chỉ Huy. Ngoài viên sĩ quan an ninh, tất cả đều bị cấm tuyệt đối không ai được nói chuyện với tôi, kể cả những vệ binh. Vệ binh không được nói chuyện với tôi, nhưng người ta không cấm cái quyền được la hét, và chửi bới tôi. Những tù nhân tạp dịch cũng không được lảng vảng gần khu vực nhà cầu khi có tôi ở đó. Một sự cách ly quá nghiêm nhặt. Tôi thấy cô độc lạ lùng, và thèm được tiếp xúc thân thiện với con người của trần gian. Tôi sợ sự lặng thinh. Đối diện với cô độc còn dễ sợ hơn giáp mặt kẻ thù.
Khi vệ binh kéo cánh cửa liếp, anh tù bước vào đưa phần ăn cho tôi. Nhiều lần, anh nhìn tôi, nheo nheo một con mắt như muốn nói điều gì đó. Tôi nghĩ không ra. Có lần, nhân lúc vệ binh lơ đễnh, anh vội vàng nói rất nhỏ: “Cầu tiêu”. Qua hai tiếng ngắn gọn này, tôi cũng chẳng biết được ý anh. Có lẽ anh muốn tôi chú ý đến cầu tiêu. Lúc ngồi trong cầu, tôi quan sát khắp nơi, trên mái nhà, quanh vách nứa. Tôi phát giác một chiếc lá được xếp nhỏ, ai đó giấu nhét vào khe vách. Nếu không chú ý tìm tòi, không thể nào thấy được. Mở ra coi, có hai hột muối. Mừng quá. Tôi muốn kêu lớn lên để tỏ nỗi mừng. Cám ơn người bạn tù đã khó khăn luồn lách qua mọi kiểm soát để giúp đỡ tôi. Việc này, nếu bị bắt quả tang, người bạn ấy không thể nào tránh khỏi bị làm kiểm điểm. Hai hột muối quý hơn vàng. Hai hột muối là liều thuốc hồi sinh trong cơn ngắc ngoải. Chưa nếm mà miệng đã tiết ra dịch vị rồi. Tinh thần tôi hưng phấn hơn. Ôi, tinh thần hưng phấn là điều kiện cần thiết để vực dậy cho một cơ thể bạc nhược biết dường nào! Tôi cẩn thận nhét hai hột muối vào lưng quần, đi ra. Sao tên vệ binh nhìn tôi kỹ thế? Hắn nghi ngờ điều gì chăng? Tôi mất tự nhiên, không dám ngó thẳng vào hắn. Tay chân tôi lính quýnh. Tôi làm bộ đánh rơi ống bương đựng nước tiểu, và cúi xuống nhặt lên để tay chân đỡ cảm thấy dư thừa. Tôi tự trách, sao lúc ở trong cầu tiêu, không nuốt hai hột muối cho rồi? Nhưng, tôi lại tự trấn an. Làm gì hắn biết được? Có tật nên giật mình, thế thôi. Khi lấy nước vào lon Guigoz, tôi run tay làm đổ.
Vệ binh miệt thị:”Chả nên trò trống gì. Tay ấy chỉ bốc cứt mà ăn.”
Sau câu mắng nhiếc, tôi thấy vững tâm. Thế là hắn không biết gì cả. Dù hắn có mắng nhiếc nhiều hơn nữa, tôi cũng chẳng màng. Nhưng, hãy để yên hai hột muối cho tôi. Thiếu muối, tôi sẽ lâm nguy.
Buổi trưa. Người bạn tù mang phần ăn tới. Anh lại nheo nheo một con mắt với tôi. Tôi nhìn anh bằng đôi mắt biết ơn, và ho lên mấy tiếng như một dấu hiệu trả lời rằng tôi đã biết ý anh. Những ngày sau, mỗi ngày tôi đều nhận được muối. Năm ba hột là thường. Có khi nhiều hơn, tôi ngồi trong nhà cầu ăn bớt để phần còn lại dễ giấu nhét trong lưng quần. Việc gì rồi cũng quen đi, tôi không còn sợ sệt như lần đầu tiên. Dù lượng muối không đầy đủ cho một cơ thể bình thường, nhưng với tôi, nhờ đó mà cầm hơi qua ngày.
Trong thời gian ra Bắc cải tạo, có ba thứ mà người tù thèm khát nhất: đường, muối và mỡ. Tôi nhớ mãi, trong một dịp Tết năm nào, mỗi người được phát một chén đường cát trắng. Nghe nói, đường này do nước anh em xã hội chủ nghĩa Cu Ba, viện trợ cho nước anh em xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Không ai hơi đâu mà thắc mắc, nước nào là anh, nước nào là em. Có đường là khoái rồi. Cám ơn Cu Ba. Đang thèm khát, ai cũng ăn một mạch là sạch chén. Riêng anh bạn tên Sơn, gốc Pháo Binh, còn để dành lại một ít. Mỗi ngày, anh cho đường vào cái ve dầu Nhị Thiên Đường, pha thêm vài giọt nước, đem theo ra hiện trường lao động. Thỉnh thoảng, anh ngừng tay cuốc đất, lấy ve nước đường ra, dùng cái que tăm chấm vào, đưa lên miệng liếm. Lần nào anh cũng rên lên một cách khoái lạc: “Trời ơi ..., tôi nghe chất ngọt chạy rần rần trong đường gân ống tủy.” Tiếng rên của anh như một cố ý khêu gợi sự thèm khát của người chung quanh. Có người không chịu được, chửi thề: “Đù mạ! Ăn mẹ nó hết cho rồi. Cứ liếm như liếm lồn.”
Dù có muối, nhưng sức tôi mỗi ngày một suy kiệt bết bát hơn. Thân xác nào chịu nổi với điều kiện một ngày bốn khúc khoai mì, mình trần lạnh lẽo ở trong cái hang ẩm thấp đầy những con mạt ngày đêm làm ngứa ngáy? Những khi ra ngoài, tôi nhìn làn da của mình, hình như ngả dần sang màu xám chì. Thiếu ánh sáng mặt trời, đáng lẽ da tôi phải tái đi chứ? Sự biến đổi trái ngược này là một hiện tượng khó hiểu. Đến một lúc, tôi không còn nghe ngứa nữa. Không biết sự chịu đựng đã quen, hay da mất dần cảm giác? Đặc biệt, lớp da dày của bàn chân bắt đầu bong ra từng mảng. Bên trong là lớp da mới còn non đỏ hỏn, dễ rướm máu. Tôi không gỡ bỏ lớp da dày. Cứ để nguyên như thế, coi như đôi giày bảo vệ lớp da non.
Dạo này, tôi không còn đủ sức vận động hai cánh tay cho máu lưu thông, hoặc tập theo phương pháp dưỡng sinh. Tôi tiết kiệm từng chút sinh lực của mình. Như một ngọn đèn leo lét sắp cạn dầu, tôi cố giữ ngọn lửa thật nhỏ để bớt hao nhiên liệu. Tôi thường nằm, và chú ý đến hơi thở. Lượng hơi thở rất ít, chỉ bằng phân nửa của người bình thường. Mỗi khi thở ra, hình như buồng phổi không còn muốn tự động hít vô nữa. Tôi biết tôi đã tiến đến gần sự chết lắm rồi. Do bản năng sinh tồn, tôi gắng hít thở thật đầy và sâu để giữ mạng sống. Lúc nào tôi cũng buồn ngủ, hai mắt mệt mỏi muốn nhắm lại. Tôi sợ một ngày nào đó, tôi sẽ ngủ luôn một giấc không bao giờ dậy nữa. Trong mơ màng, tôi thường thấy tôi bay lơ lững, và phía dưới có con chó dữ đang chồm lên như muốn cắn. Tôi cố gắng bay lên cao hơn, nhưng không được. Cuối cùng, bao giờ tôi cũng thấy tôi rớt xuống một vùng nước ngập mênh mông giá lạnh. Giấc mơ kỳ lạ ấy, cứ lập đi lập lại hoài. Nhớ những ngày còn nhỏ, mỗi lần về thăm ngoại, tôi phải đạp xe trên con đường đất, ngang qua căn nhà có con chó rất dữ, và bị nó rượt đuổi. Chính con chó này làm tôi khủng hoảng tinh thần lúc còn thơ dại. Nỗi ám ảnh đó, tưởng đã quên lãng trong đời. Không ngờ, nó vẫn còn nằm sâu trong tiềm thức để bây giờ, trở lại trong giấc mơ. Sách nhà Phật nói, người hấp hối thường thấy lại quá khứ của mình. Nếu đúng thế, thì trời ơi, không còn nghi ngờ gì nữa, tôi sắp chết thật rồi. Nhưng sao cuối cơn mơ, tôi lại thấy rớt xuống nước? Có lẽ, đây là sự liên quan nối kết giữa tâm sinh lý, vì tôi đang ở trong hang núi lạnh lẽo.
Hiện tại, đối với tôi, không còn gì quan trọng nữa. Tôi chỉ nghĩ làm sao để níu lại sự sống. Thân xác không được bồi dưỡng bằng thức ăn, tôi tự bồi dường bằng dưỡng khí. Hít thở chậm, đầy và sâu theo phương pháp điều tức của các nhà tu hành phương Đông. Nếu biết cái thuật nhịn đói, và chết giả của những thầy Fakia Ấn Độ, đem chôn bốn mươi ngày, moi lên vẫn còn sống, thật cần thiết cho tôi biết chừng nào. Ngoài việc chú ý hơi thở, tôi còn cầu nguyện. Lúc trước, tôi chỉ cầu sự sống. Trong những ngày này, tôi còn cầu được giúp đỡ phần hồn, nếu đã đến hồi tận mệnh. Tôi tin tưởng mãnh liệt rằng, con người còn có một nơi chốn trở về, sau khi lìa bỏ thế gian.
Một hôm, tôi nói với viên sĩ quan an ninh cho tôi xin một cây gậy.
Anh ta trả lời: “Quy định, anh chỉ có được một lon nước uống, và một ống bương chứa nước tiểu để trong phòng.”
“Tôi không mang gậy vào phòng. Tôi chỉ dùng nó mỗi khi ra ngoài. Xong việc, tôi để nó bên ngoài.”
“Chưa thể quyết định ngay được. Tôi sẽ nghiên cứu lại đề nghị của anh.” Anh ta lấy ngón tay khều nhẹ lớp da bong của bàn chân tôi. “Sao lại thế này?”
“Tôi không biết.”
“Anh thì hỏi cái gì cũng không biết. Thân thể anh, anh cũng không biết. Hãy coi chừng cái đầu luôn luôn khép kín của anh đấy.”
“ Chuyện gì biết thì nói. Không biết mà trả lời ẩu, thành ra nói láo với cách mạng.”
“Anh khai quê quán Tây Ninh?”
“Vâng.”
“Anh biết núi Bà Đen không?”
“Biết.”
“Trước giải phóng, tôi có thời gian dài cả năm chiến đấu quanh vùng ấy. Khi đánh nhau, các anh hung hãn như con thú điên.”
Tôi tránh né: “Sinh ra ở Tây Ninh, nhưng tôi không làm việc ở quê nhà. Tôi không đánh nhau với cán bộ.”
“Dù nơi nào, các anh cũng tỏ ra hung hãn. Anh kể những vùng anh đã đi qua, xem có từng đụng độ với tôi không nào?”
Tôi nói trong mệt mỏi: “Chuyện lâu rồi. Tôi không nhớ rõ.”
“Anh đùa ấy à?”
“Không dám. Cách mạng đã chẳng từng bảo rằng hãy quên quá khứ tội lỗi xấu xa tồi bại của các anh đi. Tôi còn nhớ làm gì?”
“Ngụy biện. Hồ sơ lý lịch của các anh, tôi nắm trong tay, muốn biết lúc nào mà chả được. Nói chuyện là để an ủi anh thôi,”
Ai mà dám tin những kẻ tâm địa chứa đầy nọc độc?
“Cám ơn cán bộ.” Tôi nói.
Anh ta dỗi: “Chả cần cám ơn. Các anh quen miệng, lúc nào cũng nói cám ơn. Nói mãi hai tiếng ấy trở thành giả dối, vô nghĩa.”
Phải mất gần tuần sau, viên sĩ quan an ninh mới cho tôi một chiếc gậy. Chiếc gậy cong queo khúc mắc như chiếc gậy của ông tiên quảy trái bầu trong tranh Tàu.
“Vệ sinh xong, lên phòng làm việc gặp tôi nhé.”
Hơn mười ngày trước, mỗi khi ra ngoài, tôi đã phải lần từng bước. Lúc nào mắt hoa lên choáng váng, tôi dừng lại định thần, và thở lấy sức. Mặc dù không gỡ bỏ lớp da dày dưới bàn chân, tôi vẫn thấy lớp da non đau rát. Hôm nay, nương theo chiếc gậy, tôi đi một mạch đến nhà cầu. Đuối quá, phải dựa vào vách liếp nghỉ mệt, trước khi leo lên cầu tiêu. Và lúc loay hoay trên cầu, tôi sợ nhứt là té xuống rảnh phân. Nếu chẳng may sa xuống cái rãnh gớm ghiếc này, chắc tôi không gượng dậy nổi. Có thể sẽ nằm chết luôn với đám dòi bọ lúc nhúc trong chất bùn non màu vàng ệnh.
Tôi không còn đủ sức kéo nước từ giếng lên. Vì thế, tôi không tắm. Hơn nữa, lúc nào tôi cũng cảm thấy lạnh, không muốn tắm. Vệ binh giúp tôi lấy nước vào lon Guigoz, kèm theo những lời mắng nhiếc thậm tệ. Cũng đúng thôi. Nợ nần gì nhau mà phải lẽo đẽo theo sau một thằng hôi hám?
Vệ binh dẫn tôi lên phòng làm việc của viên sĩ quan an ninh. Anh ta chỉ cái ghế, bảo tôi ngồi. Tôi nói, tôi muốn ngồi dưới nền đất, có bức vách làm chỗ dựa lưng.
“Yếu thế cơ à?”
“Vâng.”
“Thuốc lào Tiên Lãng nhé?”
Tôi lắc đầu. Mỗi lần anh ta tỏ ra tử tế, tôi phải đề phòng. Sau lưng sự tử tế, có thể một tai họa bất ngờ giáng xuống. Và tôi cũng biết, bây giờ tôi chỉ còn là một bộ xương thoi thóp. Sức ấy làm sao chịu nổi cái độ say ngất người, tê rần cơ thể, nằm vật ra, thở hồng hộc của thuốc lào Tiên Lãng? Nếu hút vào một bi, tôi sẽ đứt hơi luôn.
Anh ta cười cười. Sao tôi thấy vẻ cười mang tính gian ác lạ.
“Anh biết tôi là ai không?”
“Sĩ quan an ninh.”
“Hẳn nhiên rồi. Nhưng tôi còn là rễ của Tây Ninh nữa đấy.”
Tôi im lặng.
“Khi vào giải phóng miền Nam, tôi lấy vợ người cùng quê với anh.”
Tôi vẫn im lặng. Người cùng quê với tôi, lấy kẻ vô thần thì danh giá gì mà phải bận tâm suy nghĩ?
Anh ta nhìn tôi một lúc, như quan sát: “Hai người kia đã đi rồi.”
Câu nói bất ngờ làm tôi thảng thốt kêu lên như sắp khóc: “Chết? Trời ơi!”
Cả người tôi lạnh toát, rụng rời. Một tin khủng khiếp mà anh ta nói tỉnh bơ. Đúng là quân sát nhân coi mệnh người như heo chó mới có thể thản nhiên trước sự tử vong của người khác.
Sau cuộc vượt trại bất thành, chúng tôi bị bắt đưa về Đoàn. Từ ấy, bị cách ly, không nhìn thấy mặt nhau. Mỗi ngày, người ta dẫn ra từng người một cho đi làm vệ sinh. Xong, đem vào khoá lại. Dẫn người kết tiếp. Chúng tôi tuy gần nhau mà vẫn như muôn trùng cách trở. Thể lực tôi vốn kém hơn hai người bạn, nào ngờ bạn tôi đã sớm xuôi tay.
Viên sĩ quan an ninh lắc đầu: “Không chết đâu. Làm gì hốt hoảng thế?”
Tôi há hốc mồm, không hiểu.
“Các anh may mắn lắm. Được đặc xá cho về trại cải tạo.”
Tôi không dám tin nơi lỗ tai của mình, hỏi lại: “Có nghĩa rằng tha? Khỏi bị cùm kỷ luật?”
“Đúng thế!”
“Còn tôi?”
Viên sĩ quan gắt: “Anh này ngớ ngẩn. Đã bảo tha là tha tất, kể cả anh nữa.”
Tôi thở phào. Lòng thầm hối về những oán hận vừa qua. Nhưng chung quy cũng tại anh ta. Một tin mừng nói không rõ, dễ ngộ nhận ra một tin buồn tang tóc.
“Hai người kia đã đi trước. Tôi sắp xếp cho anh đi chuyến cuối cùng vì anh cùng quê vợ tôi.”
Lại cái chuyện cùng quê nữa! Dù mừng, nhưng tôi vẫn không khỏi rủa thầm. Tổ cha nó. Cùng quê với vợ nó, mà nó cố tình giữ lại cho đi chuyến cuối cùng để hành tôi thêm được ngày nào hay ngày ấy.
Anh ta trả cho tôi cái túi vải đeo lưng: “Hãy ngồi đây, kiểm lại đồ đạc. Mặc quần áo vào. Chờ tôi.”
Vừa giở bộ đồ ra, tôi nghe mùi mồ hôi gắt gắt đã biến thành mùi mốc. Thương quá, cái mùi của tôi ấp ủ trong áo quần sau hai mươi chín ngày phong kín. Lòng tôi xúc động, cầm nguyên gói quần áo úp lên mặt, hít thở cái hơi hướm cũ của mình. Nước mắt tôi ứa ra, cảm tưởng như vừa từ cõi khác trở về gặp lại chính tôi sau một thời gian dài thất tung. Bây giờ, tôi hiểu rằng, mọi sự lý luận về lòng vị tha nào cũng không bằng lòng tôi yêu tôi hơn bất cứ yêu ai trên cõi đời này.
Viên sĩ quan trở lại, thấy tôi còn đang bần thần ngơ ngẩn.
“Khóc đấy à?”
Tôi lắc đầu, không nói. Một kẻ sống thuần bằng giáo điều máy móc, làm sao cảm thông được con tim ứa máu của người khác?
Anh ta đưa tôi một hủ đường mật đặc sản địa phương, và một bọc gạo.
“Bồi dưỡng đặc biệt. Ăn từ từ. Đừng gấp quá, chết đấy.”
“Cám ơn.”
“Tôi sẽ cho người đến giúp anh.”
Anh ta bỏ đi. Lúc sau, người bạn tù từng đem phần ăn hằng ngày cho tôi xuất hiện.
Bạn rón rén ngồi kề bên tôi, nói nhỏ: “Hai người kia đã được chuyển đi hôm qua.”
“Đi đâu?”
“Không biết. Có dấu hiệu tất cả đều chuyển trại, kể cả Bộ Chỉ Huy tổng trại.”
“Thằng sĩ quan an ninh nói nó giữ tôi lại, đi chuyến cuối cùng.”
Bạn nhìn tôi, ái ngại: “Anh có làm gì để nó ghét không?”
“Chẳng làm gì. Nhưng tôi có cảm tưởng nó thù tôi từ truyền kiếp.”
“Nó bảo tôi nấu cháo cho anh ăn với đường.”
“Tôi sợ chiếc mặt nạ nhân đạo của nó. Hai người bạn đi trước có được phát gạo và đường không?”
“Không.”
“Anh thấy sức khoẻ họ thế nào?”
“Khá hơn anh. Nhưng đi đường xa vất vả, cũng... đáng ngại.” Người bạn tù ngó dáo dác, hạ giọng như sợ có người nghe thấy, “Anh em ở trại suy luận, hình như sắp có đánh nhau với Trung Quốc. Họ chuyển tất cả tù từ thượng du về trung du để bộ đội rảnh tay phòng thủ biên giới.”
“Vì thế mà tôi được tha chăng?”
“Có lẽ thế.”
Người bạn tù mang bọc gạo đi nấu cháo. Tôi mệt mỏi nằm dài xuống nền đất, gối đầu lên túi vải.
Viên sĩ quan bước vào, mang theo tấm bạt che mưa của bộ đội. Thấy tôi nằm, anh ta la lớn: “Không thể nằm đây, phòng làm việc của tôi. Hãy qua bên kia, trong phòng trực có chiếc sạp nứa.”
Tôi bước đi lảo đảo qua phòng trực. Anh ta ôm tấm bạt và xách túi vải của tôi theo sau. Tới nơi, anh bỏ mọi thứ lên chiếc sạp.
“Nằm đấy. Dùng tấm bạt che mưa này làm chăn đắp. Còn anh kia đâu?”
“Đang nấu cháo dưới bếp.”
Viên sĩ quan đứng sát mép giường, đổi giọng nhỏ hơn: “Nói điều này, không được tiết lộ với ai. Đường gạo là của vợ tôi gửi biếu anh, dù không quen biết nhưng cũng cùng quê. Nói không phải kể công, chính tôi đề nghị lên trên xin tha các anh, kèm theo cái thư anh gửi gia đình. Cái thư có tác dụng rất tốt khi cấp trên nghiên cứu đề nghị của tôi.”
Tôi sững sờ, không nói được tiếng nào với kẻ đối diện. Niềm ân hận dâng tràn trong tôi. Sau khuôn mặt gỗ đá trơ trơ tưởng như không tình cảm ấy, vẫn còn đọng lại cái nhân tính của một con người.
Anh ta nói tiếp: “Anh ở lại vài ngày, bồi dưỡng lấy sức để đi xa. Ngày mai, những anh cải tạo được biệt phái lên Đoàn không đến đây nữa. Anh phải tự phục vụ cho mình. Khả năng tôi giúp anh chỉ có thế. Làm hơn, sẽ bị chỉ trích phê bình. Hậu quả của người bị phê bình không đơn giản đâu. Anh hiểu chứ?”
Tôi ấp úng: “Vâng! Tôi hiểu. Tôi cũng không biết nói lời gì để cám ơn...”
Anh ta gạt ngang: “Chả cần phải làm thế. Khi nói chuyện với tôi, hãy dè chừng những người chung quanh. Trước thế nào, nay vẫn giữ thế ấy. Tỏ thái độ khác sẽ có hại cho anh và cả tôi nữa. Nhớ nhé!”
Nói xong, viên sĩ quan an ninh quay đi. Cũng vẫn con người ấy, nhưng giờ đây, tôi thấy dưới lớp băng đông giá còn tiềm ẩn cái hơi ấm tình người. Nhìn qua bên kia hàng rào trại, cây rừng đang xanh tốt mùa mưa. Lòng tôi cũng bắt đầu xanh lại. Trong khi chờ người bạn tù nấu cháo, tôi nằm xuống chiếc sạp nứa. Có tiếng mọt kẽo kẹt nghiến gỗ trong vách. Trước kia, đêm trằn trọc trong trại cải tạo nghe tiếng mọt, lòng tôi ray rứt như nghe đời mình đang bị gặm nhấm hao mòn dần theo những ngày tháng. Bây giờ, cũng tiếng mọt, nhưng tôi lại nghe như tiếng đời sinh động.